TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 327/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Vào ngày 14 tháng 7 năm 2022, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 250/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2021, về việc “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2780/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3281/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2022, giữa:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị S, sinh năm 1987 (Có đơn xin vắng mặt);
Địa chỉ: Phường 7, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Ông Lý Quốc H, sinh năm 1981 (Vắng mặt);
Địa chỉ: phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bà Trần Thị S và ông Lý Quốc H tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2009 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 294, Quyển 1/2009 ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Ủy ban nhân dân phường B, quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên chung sống có 02 con chung là Lý Gia B, giới tính: Nam, sinh ngày 25/9/2009 và Lý Gia Khang, giới tính: Nam, sinh ngày 28/9/2013.
1 Bà Trần Thị S khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lý Quốc H với lý do: Vợ chồng bất đồng quan điểm sống và nhiều vấn đề khác. Tình trạng mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và thực tế hai bên đã không còn sống chung với nhau từ năm 2019. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không hàn gắn được nên bà yêu cầu được ly hôn. Về con chung: Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Bà S không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nghĩa vụ chung về tài sản: Không có.
Bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không có bất cứ ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn mặc dù đã được tống đạt hợp lệ.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa có ý kiến:
- Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định đúng quan hệ tranh chấp, đúng tư cách đương sự; tiến hành đúng thủ tục thu thập chứng cứ, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tống đạt văn bản đúng pháp luật; Hội đồng xét xử đúng thành phần, tiến hành thủ tục đúng pháp luật. Xét xử vắng mặt đương sự đúng pháp luật.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S, xử cho bà S được ly hôn với ông H vì mâu thuẫn gia đình là trầm trọng, không hàn gắn được và giao cho bà S được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Ghi nhận việc bà S không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nghĩa vụ chung về tài sản:
Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về quan hệ tranh chấp và thủ tục tố tụng:
- Bà Trần Thị S khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lý Quốc H.
Đây là tranh chấp về ly hôn, là loại tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn là người Việt Nam cư trú tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền giải quyết.
- Về sự vắng mặt của các đương sự:
+ Đối với nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt hai bên đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Đối với bị đơn: Ngày 01/12/2021, Tòa án đã thực hiện thủ tục niêm yết công khai Thông báo về việc thụ lý vụ án và triệu tập ông H đến Tòa án để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện nhưng ông H vắng mặt không lý do. Ngày 04/4/2022, Tòa án thực hiện thủ tục tống đạt trực tiếp cho ông H Thông báo về việc mở phiên họp, công khai chứng cứ và hòa giải; giấy triệu tập ông H đến Tòa án nhưng ông H vẫn vắng mặt không lý do. Ngày 23/5/2022, Tòa án thực hiện thủ tục tống đạt trực tiếp cho ông H Thông báo về việc mở phiên họp, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai; giấy triệu tập ông H đến Tòa án tham dự phiên hòa giải nhưng ông H vẫn vắng mặt không lý do, nên Tòa án lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ngày 03/6/2022, Tòa án niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập ông H đến Tòa án tham dự phiên xét xử vào ngày 21/6/2022 nhưng ông H vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa, tống đạt hợp lệ cho ông H Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập ông đến phiên tòa để xét xử vụ án nhưng ông H vẫn vắng mặt tại phiên tòa ngày hôm nay. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Về nội dung vụ án, xem xét các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:
[1] Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về điều kiện để giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
[2] Qua lời khai của bà S (không có sự phản đối của ông H) cho thấy mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do bất đồng về quan điểm sống. Cuộc sống chung không còn hạnh phúc, thiếu sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Cả hai không tự hàn gắn và tự giải quyết mâu thuẫn được nên từ năm 2019 đến nay hai bên không còn sống chung nhau.
[3] Ông H không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bà S đưa ra nên theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì bà S không phải chứng minh lý do, mức độ mâu thuẫn cho yêu cầu ly hôn của mình.
Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc, cùng chăm lo cho con cái nhưng hai bên đã không thực hiện được.
Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà S và ông H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, là điều kiện để giải quyết cho ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà S đối với ông H là có cơ sở để chấp nhận.
[4] Về con chung: Tại các biên bản lấy ý kiến ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng thể hiện hai trẻ Lý Gia B, giới tính: Nam, sinh ngày 25/9/2009 và Lý Gia Khang, giới tính: Nam, sinh ngày 28/9/2013 có nguyện vọng được sống với bà S và bà S có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nên giao cho bà S được trực tiếp nuôi dưỡng 02 trẻ là hợp lý.
Bà S không yêu cầu ông H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Sự tự nguyện này đúng pháp luật nên ghi nhận.
[5] Về tài sản chung: Bà S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.
[6] Về nghĩa vụ chung: Bà S khai không có và hiện chưa xác định được, khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác.
Về án phí: Án phí về việc ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), bà Trần Thị S phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 1 Điều 28 ; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị S về việc xin ly hôn.
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Trần Thị S được ly hôn với ông Lý Quốc H.
Quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị S và ông Lý Quốc H được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 294, Quyển 1/2009 ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, được chấm dứt kể từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
1.2. Về con chung: Giao cho bà Trần Thị S được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ Lý Gia B, giới tính: Nam, sinh ngày 25/9/2009 và trẻ Lý Gia Khang, giới tính: Nam, sinh ngày 28/9/2013.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị S không yêu cầu ông Lý Quốc H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo qui định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo qui định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con.
1.3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
1.4. Về nghĩa vụ chung: Bà Trần Thị S khai không có. Nếu có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.
2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm bà Trần Thị S phải chịu là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà bà S đã nộp theo Biên lai thu số AA/2021/0005005 ngày 12 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh. Bà S đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Hai bên đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 327/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 327/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về