TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 323/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 30 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 260/2022/TLST – HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1443/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1994; Địa chỉ: thôn H, xã O, thị xã A, tỉnh Bình Định, có mặt.
- Bị đơn: Anh Bùi Thế N, sinh năm 1991; Địa chỉ: khu vực A, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Định, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim Y trình bày: Chị và anh Bùi Thế N tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H ngày 06/6/2019. Sau khi cưới, vợ chồng sống ở khu vực A, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Định. Vợ chồng sống không hạnh phúc do anh Bùi Thế N thường uống rượu say, chửi bới đánh đập chị. Vợ chồng không sống chung từ tháng 8/2020 đến nay. Chị xác định không còn tình cảm với anh Bùi Thế N nên yêu cầu ly hôn.
Về con chung: Có 01 con chung tên Bùi Nguyễn Hữu N, sinh ngày 24/3/2020, hiện đang sống với chị. Chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.
Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.
- Theo biên bản lấy lời khai bị đơn anh Bùi Thế N trình bày: Thống nhất như lời khai của chị Nguyễn Thị Kim Y về thời gian, điều kiện kết hôn. Sau khi cưới, vợ chồng sống nhà mẹ anh ở khu vực A, phường H, thị xã A, tỉnh Bình Định. Vợ chồng sống hạnh phúc đến giữa năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng sống không hợp. Anh làm nghề thợ hồ, cuối buổi làm thường nhậu với anh em bạn thợ. Về nhà vợ chồng liên tục cãi kình, xích mích. Tháng 8/2020, chị Nguyễn Thị Kim Y bồng con về Nhơn Phúc sống, vợ chồng không sống chung đến nay. Thỉnh thoảng anh đến thăm con nhưng vợ chồng không hàn gắn hạnh phúc. Anh xác định vợ chồng không còn chung sống đã lâu, không thể hàn gắn được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim Y.
Về con chung: Có 01 con tên Bùi Nguyễn Hữu N, sinh ngày 24/3/2020, hiện đang sống với chị Nguyễn Thị Kim Y. Anh đồng ý giao con cho chị Y tiếp tục nuôi. Nếu chị Y yêu cầu cấp dưỡng nuôi con thì anh sẽ cấp dưỡng mỗi tháng từ 1.000.000đ đến 2.000.000đ.
Tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.
* Tại phiên tòa:
- Chị Nguyễn Thị Kim Y vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn và nuôi con.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A tham gia phiên Tòa: Về tố tụng: hoạt động tố tụng của Tòa án trong quá trình thụ lý và tại phiên Tòa đều tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: đề nghị công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N. Giao con Bùi Nguyễn Hữu N, sinh ngày 24/3/2020 cho chị Nguyễn Thị Kim Y nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị Kim Y không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Các đương sự không tranh chấp tài sản chung nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Nguyễn Thị Kim Y yêu cầu ly hôn anh Bùi Thế N; bị đơn Bùi Thế N đang cư trú tại thị xã A, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Anh Bùi Thế N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt tại phiên tòa, có yêu cầu Tòa giải quyết vụ án vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Thế N.
[3] Chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N tự nguyện xác lập quan hệ vợ chồng, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H ngày 06/6/2019 nên hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp.
[4] Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể khắc phục, không còn sống chung từ tháng 8/2020 cho đến nay. Chị Nguyễn Thị Kim Y xác định không còn tình cảm với anh Bùi Thế N nên yêu cầu ly hôn. Anh Bùi Thế N thừa nhận mức độ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và thống nhất ly hôn. Sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với thực trạng mâu thuẫn trong cuộc sống nên được công nhận.
[5] Về trách nhiệm nuôi dưỡng con chung sau ly hôn: Chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N có 01 con tên Bùi Nguyễn Hữu N, sinh ngày 24/3/2020, hiện chị Y đang trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N thỏa thuận giao con cho chị Y tiếp tục nuôi nên ghi nhận.
[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Kim Y không yêu cầu anh Bùi Thế N cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
[7] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N không tranh chấp, không yêu cầu Tòa giải quyết nên không xem xét.
[8] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N thuận tình ly hôn nên mỗi người phải chịu 25% án phí ly hôn (75.000đ).
[9] Ý kiến của đại diện viện kiểm sát nhân dân thị xã A phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 192, 202, 227, 264, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Áp dụng Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14;
Tuyeân xöû:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N.
2/ Về con chung: Giao con Bùi Nguyễn Hữu N, sinh ngày 24/3/2020 cho chị Nguyễn Thị Kim Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị Kim Y không yêu cầu anh Bùi Thế N cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
3/ Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Kim Y và anh Bùi Thế N không tranh chấp, không yêu cầu Tòa giải quyết.
4/ Về án phí:
4.1/ Chị Nguyễn Thị Kim Y phải chịu 75.000đ (bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Chị Nguyễn Thị Kim Y đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005282 ngày 10/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã A nên được hoàn trả 225.000đ (hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
4.2/ Anh Bùi Thế N phải chịu 75.000đ (bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí ly hôn.
5/ Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Kim Y có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Bùi Thế N vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
6/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 323/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 323/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về