Bản án về tranh chấp ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 96/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01.8.2022, quyết định hoãn phiên tòa số 81/2022/QĐST-HN ngày 16.8.2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Lê Thị Cẩm C; sinh năm: 1994; Hộ khẩu thường trú: thôn Mỹ Tân, xã ĐP, huyện ĐL, tỉnh Quảng Nam. có mặt

* Bị đơn: Ông Phan Văn X; năm: 1980; Hộ khẩu thường trú: K43/17 Phó Đức Chính, phường MT, quận S, Đ. vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn xin ly hôn, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà hôm nay nguyên đơn bà Lê Thị Cẩm C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: tôi và ông Phan Văn X kết hôn vào ngày 12.4.2021 có đăng ký kết hôn tại UBND phường MT, quận S, TP. Đ. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện.

Sau khi kết hôn, chúng tôi chung sống tại K43/17 Phó Đức Chính, phường MT, quận S, TP Đ.

Tháng 8 năm 2021 thì chúng tôi phát sinh mâu thuẫn và thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm về vấn đề tiền bạc. Đã nhiều lần hoà giải nhưng không có kết quả. Tháng 9 năm 2021 chúng tôi đã không còn chung sống với nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên tôi đề nghị Toà án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Phan Văn X.

- Về con: Tôi và ông Phan Văn X có 01 con chung là Lê Bình A, sinh ngày 20.12.2021, Do ông Phan Văn X cho rằng không phải con chung nên tôi đã đăng ký khai sinh họ mẹ và không có tên cha nên cháu Lê Bình A là con riêng của tôi và tôi tự nuôi con và không có bất cứ yêu cầu gì về cháu Lê Bình A.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

* Bị đơn là ông Phan Văn X không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S:

- Về thủ tục tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn bà Lê Thị Cẩm C kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án; bị đơn ông Phan Văn X không chấp hành nghiêm pháp luật, vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

-Về nội dung vụ án: xét thấy về quan hệ hôn nhân mâu thuẫn của bà Lê Thị Cẩm C và ông Phan Văn X đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn vợ chồng đã được UBND phường Mân Thái xác nhận nên căn cứ vào Điều 51,56 Luật HNGĐ đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Cẩm C.

Về con: bà Lê Thị Cẩm C khai nhận có 01 con chung là Lê Bình A, sinh ngày 20.12.2021 bà Ch khai nhận đây là con riêng của bà Ch nên bà không có yêu cầu gì nên không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Cẩm C xác nhận không có nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1].Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Tranh chấp ly hôn bà Lê Thị Cẩm C và ông Phan Văn X thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận S, TP Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho đương sự vắng mặt theo quy định tại Điều 208, 209, 210, 211 của BLTTDS. Tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn không xuất trình thêm chứng cứ mới.

Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 16.8.2022 và cũng như phiên toà hôm nay Toà án đã triệu tập, niêm yết công khai Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà đối với bị đơn ông Phan Văn X, nhưng ông Phan Văn X vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt ông Phan Văn X.

[2].Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Cẩm C và ông Phan Văn X thì thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Cẩm C và ông Phan Văn X kết hôn năm 2021 có đăng ký kết hôn tại UBND phường MT, quận S, TP. Đ. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện.Sau khi kết hôn, chúng tôi chung sống tại K43/17 Phó Đức Chính, phường MT, quận S, TP Đ.

Theo bà Lê Thị Cẩm C trình bày vợ chồng chung sống được 05 tháng thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm về vấn đề tiền bạc, mọi vấn đề liên quan đến thu nhập của hai vợ chồng thì người quyết định là gia đình chồng, từ đó vợ chồng xung đột nên bà Ch đã dọn về nhà mẹ ruột sinh sống từ tháng 9 năm 2021. Nay vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nên bà Ch đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Phan Văn X.

Trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa hôm nay ông Phan Văn X không đến Tòa án để trình bày ý kiến và tham gia tố tụng điều này thể hiện ông X không có mong muốn đoàn tụ, bỏ mặc cho mâu thuẩn gia đình ngày càng trầm trọng, thể hiện thái độ không tôn trọng pháp luật nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt này.

Theo xác minh tại UBND phường MT, quận S, Tp Đ thì cuộc sống vợ chồng giữa bà Ch và ông X mâu thuẩn như thế nào thì địa phương không rõ nhưng hiện nay bà Ch và ông X không còn chung sống với nhau, bà Ch đã về sống tại nhà mẹ ruột của mình. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Ch và ông X đã không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, việc bà Ch yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật HNGĐ năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về quan hệ con: Bà Lê Thị Cẩm C khai nhận có 01 con chung là Lê Bình A, sinh ngày 20.12.2021. Do ông Phan Văn X không thừa nhận là con chung nên bà Ch đã không đăng ký tên ông Phan Văn X trong giấy khai sinh nên bà Ch khai đây là con riêng của bà Ch. Ly hôn bà Ch không yêu cầu gì về cháu Lê Bình A nên HĐXX không xem xét.

[2.3] Về , nợ chung: bà Lê Thị Cẩm C xác nhận không có nên HĐXX không xem xét.

Nếu sau này bà Ch và ông X có tranh chấp về vấn đề con chung, tài sản chung và nợ chung thì có quyền khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác.

[2.4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì án phí HNGĐ sơ thẩm là 300.000 đồng bà Lê Thị Cẩm C phải nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Că ứ vào: Các Điều 51, 53, 54,56,58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Lê Thị Cẩm C đối với ông Phan Văn X Tuyên xử: bà Lê Thị Cẩm C, sinh năm 1994, được ly hôn với ông Phan Văn X, sinh năm 1980.

Giấy chứng nhận kết hôn số 32 của UBND phường MT, quận S, TP Đ cấp ngày 12.4.2021 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con: Bà Lê Thị Cẩm C khai nhận có con riêng là Lê Bình A, sinh ngày 20.12.2021. Bà Lê Thị Cẩm C không yêu cầu nên HĐXX không xem xét

3. Về tài sản chung, về nợ chung: không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Án phí HNGĐ sơ thẩm 300.000 đồng bà Lê Thị Cẩm C phải nộp, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0003484 ngày 22.6.2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, Tp Đ. Như vậy, bà Ch đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về