TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 24/2023/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 21 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 669/2022/TLST-HNGĐ ngày 25/11/2022 về tranh chấp xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Yến N; Sinh năm 2000 (Có mặt).
Địa chỉ: Nhà không số, khóm 4, phường TX, thành phố CM, tỉnh CM.
- Bị đơn: Anh Võ Thái P; Sinh năm 1991 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Nhà không số, đường RR, khóm X, phường Y, thành phố CM, tỉnh CM.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 25/11/2022 và quá trình xét xử, nguyên đơn Trần Thị Yến N trình bày:
- Về hôn nhân: Chị và anh Võ Thái P chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân phường TX, thành phố CM, tỉnh CM vào năm 2019. Trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc, về sau vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do anh P không lo làm ăn, thu nhập không ổn định thường gây nợ nần, anh P không lo lắng cho gia đình nên chị N phải tự đi làm lo cho con, đời sống vợ chồng không hòa hợp mâu thuẫn trầm trọng kéo dài và đã ly thân từ tháng 9/2022 đến nay, cả hai không còn tiếng nói chung nên không thể hàn gắn.
Nay chị N yêu cầu ly hôn với anh P.
- Về con chung: Có 01 con chung tên Võ Đức Đ, sinh ngày 17/9/2020 hiện đang sống với chị N. Sau khi ly hôn chị N yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng đến khi con chung tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
- Về tài sản chung: Chị N xác định không có.
- Về nợ chung: Chị N xác định vợ, chồng không nợ ai và không ai nợ lại.
Theo bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 04/01/2023, bị đơn Võ Thái P trình bày:
- Về hôn nhân: Anh Võ Thái P xác định về thời gian chung sống, điều kiện kết hôn, nơi kết hôn đúng như chị N trình bày. Trong thời gian chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn về phát triển kinh tế gia đình do anh P làm ăn thất bại dẫn đến công việc không ổn định, thu nhập bấp bênh. Anh P và chị N đã ly thân Nều tháng nay không còn sống chung, tuy Nên anh P vẫn còn tình cảm với chị N nên xin hàn gắn vợ chồng, anh P không đồng ý ly hôn với chị N.
- Về con chung: Có 01 con chung tên Võ Đức Đ, sinh ngày 17/9/2020 hiện đang sống với chị N. Trường hợp Tòa án giải quyết cho anh và chị N ly hôn thì anh yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Anh P xác định không có.
- Về nợ chung: Anh P xác định vợ, chồng không nợ ai và không ai nợ lại anh, chị.
Tại phiên tòa, anh Võ Thái P vắng mặt không lý do. Chị Trần Thị Yến N giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn, yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Võ Thái P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
[3] Về hôn nhân: Năm 2019, anh Võ Thái P và chị Trần Thị Yến N tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân giữa anh chị được pháp luật công nhận là hợp pháp và được bảo vệ.
Xét nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh P và chị N là do bất đồng quan điểm sống trong phát triển kinh tế gia đình. Theo chị N cho rằng anh P không lo cho gia đình, chị N phải tự đi làm lo cho con, đời sống vợ chồng không hòa hợp, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài không còn tiếng nói chung nên không thể hàn gắn. Giữa vợ chồng có hòa giải hàn gắn mối quan hệ nhưng không thành, chị N và anh P đã ly thân không còn sống chung từ tháng 9/2022 đến nay. Tại phiên tòa, chị N xác định không còn tình cảm với anh P và cương quyết xin ly hôn, về phía anh P không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn mối quan hệ. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh P và chị N không thể hàn gắn, mâu thuẫn trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N được ly hôn với anh P.
[4] Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Võ Đức Đam, sinh ngày 17/9/2020 hiện đang sống với chị N. Sau khi ly hôn chị N và anh P cùng yêu cầu được nuôi con chung. Theo qui định tại khoản 3 Điều 81 Luật HNGĐ con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Xét thấy, con chung hiện nay chưa đủ 36 tháng tuổi, từ trước đến nay thường xuyên do chị N chăm sóc trực tiếp và hiện nay đang ở chung với chị N. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Võ Đức Đam cho chị N tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Anh P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N và anh P xác định không có tài sản chung, không có nợ chung và không ai nợ lại nên không xem xét giải quyết.
[7] Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 143, 147, 207 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Tuyên xử:
- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Yến N về việc xin ly hôn anh Võ Thái P.
- Về con chung: Giao con chung tên Võ Đức Đam, sinh ngày 17/9/2020, cho chị Trần Thị Yến N tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Võ Thái P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
- Về án phí: Chị Trần Thị Yến N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ngày 25/11/2022, chị N đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002514 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau được đối trừ chuyển thu sung quỹ Nhà nước.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy đinh tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 24/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 24/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về