Bản án về tranh chấp ly hôn số 236/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 236/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 3 năm 2022 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 853/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Hồng Thị Thùy T, sinh năm 1970; Địa chỉ: Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Phan Tiến T, sinh năm: 1971; Địa chỉ:, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bà T và ông T có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 11 năm 2021 và các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, bà Hồng Thị Thùy T là nguyên đơn trình bày:

Bà và ông T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 28/8/1996.

Trong thời gian chung sống, bà chăm lo làm ăn, tạo ra tài sản của vợ chồng và gánh vác gia đình chồng như giúp đở anh em của chồng khi bệnh tật, nghèo khó, nợ nần; lo việc học hành cho cháu của chồng; nuôi anh chồng bị bệnh thần kinh; xây mồ mã cho gia đình chồng nhưng bà không nhận được sự giúp đở gì từ phía gia đình chồng.

Từ năm 2016, bà giao việc làm ăn lại cho chồng, ông T luôn bao biện, lo lắng và giúp đở cho gia đình của ông quá mức, tạo nên sự lợi dụng, ỷ lại từ người thân của ông. Bà cố gắng chu toàn mọi việc trong gia đình mà không nhận được sự quan tâm, chia sẻ gì từ ông T.

Năm 2016, bà nộp đơn ly hôn với ông T, sau đó bà rút đơn ly hôn để vợ chồng hàn gắn tình cảm, cùng lo cho các con. Tuy nhiên, trong thời gian đoàn tụ, bà và ông T vẫn tiếp tục xảy ra những bất đồng về cách ông T giúp đở gia đình của ông một cách vô điều kiện, giúp đở quá mức tạo nên sự lợi dụng, ỷ lại từ vợ chồng bà có kinh tế ổn định, bà khuyên ông T giảm bớt công việc lại, giữ gìn sức khỏe, ở bên cạnh vợ con nhiều hơn nhưng ông T vẫn cố làm ra tiền để lo lắng cho gia đình của ông, ông không theo nghe lời khuyên của bà. Ông T lấy cớ giao dịch làm ăn để thường xuyên đi nhậu với bạn bè hoặc đi cà phê mỗi tối đến khuya mới về.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T yêu cầu đoàn tụ nhưng ông không có thành ý hàn gắn tình cảm vợ chồng. Ông vẫn đi suốt ngày ở ngoài đường, thường về nhà sau 11 giờ đêm, phó mặc cho một mình bà chăm lo cho gia đình. Bà và ông T ly thân từ ngày 13/11/2021 cho đến nay.

Bà đã chịu đựng việc ông T tiền bạc không rỏ ràng, không quan tâm đến vợ con hơn 26 năm qua. Nay, bà không muốn chịu đựng thêm nữa, bà cũng không tin tưởng ông T sửa đổi nên bà kiên quyết ly hôn.

- Về con chung: Bà và ông T có con trai lớn tên Phan Thịnh K đã trưởng thành. Bà yêu cầu trực tiếp nuôi hai con tên Phan Gia K, sinh ngày 02/02/2010 và Phan Gia N, sinh ngày 07/02/2011. Bà và ông T tự thỏa thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về chia tài sản khi ly hôn: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

2. Bị đơn – ông Phan Tiến T trình bày:

Trong quá trình chung sống, ông và bà T có phát sinh một số mâu thuẫn nhỏ, ông có thể khắc phục được.

Trước đây, bà T có lo lắng, giúp đở cho gia đình của ông như bà trình bày.

Ông và bà T thường bất đồng với nhau cũng vì ông lo cho gia đình của ông. Năm 2016, bà T nộp đơn ly hôn cũng vì việc này, sau đó bà rút đơn để vợ chồng đoàn tụ.

Nay, bà T kiên quyết ly hôn, ông biết là bà T không muốn ông lo cho gia đình của ông thêm nữa, còn việc ông nhậu, không có thời gian lo cho vợ con không phải là mấu chốt vì cuộc sống của ông từ trước đến nay vẫn vậy. Ông nhận thấy vợ chồng ông có của ăn của để rồi, ông có lo cho gia đình của ông cũng không ảnh hưởng gì đến kinh tế của vợ chồng. Ông chỉ lo lắng cho gia đình của mình những lúc thắt ngặt và ông không thể không lo cho gia đình của mình được.

Ông kinh doanh bất động sản, ông chỉ nhậu nhiều khi có giao dịch làm ăn, còn nhậu giao lưu với bạn bè khoảng 01 tuần hoặc 10 ngày một lần. Ông thường xuyên đi uống cà phê với bạn bè vào buổi tối để bàn việc làm ăn. Ông vẫn về ăn cơm với vợ con và nghỉ ngơi ở nhà nhưng do ông quá bận rộn nên ông không thể chia sẻ việc nhà với bà T được.

Ông cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng, rủ bà T đi ăn thì bà không đi, bà đóng cửa phòng, ông không thể nói chuyện, giải tỏa gì được.

Ông đề nghị Tòa án tạo điều kiện cho ông và bà T hàn gắn đoàn tụ.

Trong trường hợp buộc phải ly hôn, ông đồng ý giao hai con cho bà T trực tiếp nuôi. Ông cấp dưỡng nuôi con theo khả năng của mình.

Về chia tài sản khi ly hôn: Ông và bà T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

3.1 Về việc tuân theo pháp luật:

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng qui định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng qui định tại Điều 70, 71 , 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

3.2 Về nội dung vụ án:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 58 và Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Bà T yêu cầu ly hôn với ông T. Ông T cư trú tại quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về ly hôn, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

- Hôn nhân giữa bà T và ông T là hôn nhân tự nguyện và hợp pháp được pháp luật công nhận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 676 ngày 28/8/1996 của Ủy ban nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Xét yêu cầu ly hôn của bà T, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bà T đã từng chia sẻ, giúp đở rất nhiều cho những người thân của ông T khi họ gặp khó khăn, bế tắt, bệnh tật… nhưng bà T không đồng ý việc ông T giúp đở gia đình của mình một cách vô điều kiện để người thân của ông không lo làm ăn, luôn lợi dụng, ỷ lại vào ông. Ông T nhận biết giữa ông và bà T luôn bất đồng về cách thức ông giúp đở cho người thân của mình trong thời gian dài nhưng ông không thể thuyết phục hay chứng minh cho bà T hiểu là ông chỉ giúp gia đình ông đúng người, đúng việc, đúng lúc khi họ thắt ngặt. Xét, năm 2016, bà T yêu cầu ly hôn với ông T cũng vì mâu thuẫn này, sau đó và bà T đã rút đơn ly hôn để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ. Nay, bà T và ông T lặp lại mâu thuẫn nên Hội đồng xét xử có cơ sở xác định đây là nguyên nhân chính để bà T kiên quyết ly hôn với ông T.

- Xét, ông T và bà T đã bất đồng về cách thức ông T lo cho gia đình của ông trong thời gian dài. Tại Tòa, ông T xác định ông không thể bỏ hoặc không lo cho gia đình của mình còn bà T thì không chấp nhận, không muốn chịu đựng thêm nữa nên Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa ông T và bà T là trầm trọng, không thể giải tỏa, hàn gắn được.

- Xét ông T kinh doanh bất động sản, công việc nhiều, thường đi nhậu đến khuya mới về nhà hoặc thường xuyên đi uống cà phê vào buổi tối để bàn công việc làm ăn nên ông không có thời gian dành cho gia đình, vợ con như lời bà T trình bày là đúng sự thật. Bà T khuyên ông giảm bớt công việc, giữ gìn sức khỏe, dành nhiều thời gian chăm sóc vợ con nhưng ông vẫn chưa làm được. Bà T kiên quyết ly hôn, ông mong muốn đoàn tụ nhưng ông không đưa ra được giải pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu đoàn tụ của ông T.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[3] Về con chung: Ông T đồng ý giao hai con chung tên Phan Gia K, sinh ngày 02/02/2010 và Phan Gia N, sinh ngày 07/02/2011 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con và chia tài sản khi ly hôn: Bà T và ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Căn cứ Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

                                                            QUYẾT ĐỊNH              

Căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồng Thị Thùy T được ly hôn với ông Phan Tiến T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 676 ngày 28/8/1996 của Ủy ban nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh hết hiệu lực.

2. Về con chung: Bà T được trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Phan Gia K, sinh ngày 02/02/2010 và Phan Gia N, sinh ngày 07/02/2011.

Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con và chia tài sản khi ly hôn: Bà T và ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/0047190 ngày 24/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí.

5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Bà T, ông T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 236/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:236/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về