Bản án về tranh chấp ly hôn số 228/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 228/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B - tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 883/2022/TLST – HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 177/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 263/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1963 Hộ khẩu thường trú: tổ 12, Khu phố 4B (cũ là tổ 8B, Khu phố 4), phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Phạm Văn T2, sinh năm 1963.

Hộ khẩu thường trú: tổ 12, Khu phố 4B (cũ là tổ 8B, Khu phố 4), phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà M có đơn xin vắng mặt, ông T2 vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Phạm Văn T2 có quá trình quen biết, tìm hiểu, yêu thương trong thời gian dài cho đến năm 2004 thì chúng tôi kết hôn, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 103 ngày 19/11/2004.

Sau khi kết hôn chúng tôi chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do tính cách vợ chồng không hoà hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sóng nên thường xuyên xảy ra xung đột cãi vã lẫn nhau và mâu thuẫn ngày càng gay gắt.

Trước đó vì muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng và hạnh phúc gia đình nên giữa chúng tôi đã nhiều lần tạo điều kiện để hoà giải mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm với nhau nhưng không có tình cảm. Nay tôi nhận thấy tình trạng hôn nhân lâm vào bế tắc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Tôi đã không còn tình cảm với ông T2nên tôi đề nghị Tòa án cho ly hôn với ông Phạm Văn T2.

Về con chung: Chúng tôi có hai con chung là Phạm Văn D, sinh năm 1989 và Phạm Tuấn A, sinh năm 1995. Các con đã trưởng thành và tự lao động, nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Phạm Văn T2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt, không có bản tự khai nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông T2.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, kể từ khi thụ lý vụ án là phù hợp, đúng với quy định của pháp luật. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Xét cuộc sống vợ chồng của bà M, ông T2 không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bà M yêu cầu ly hôn với ông T2 là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Hai con chung là Phạm Văn D, sinh năm 1989 và Phạm Tuấn A, sinh năm 1995. Các con đã trưởng thành và tự lao động, nuôi sống bản thân nên không đặt ra giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Do chưa có lời khai của ông T2 nên tách ra giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác nếu sau này các bên có yêu cầu.

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà M phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự: Bà Nguyễn Thị M yêu cầu được ly hôn với ông Phạm Văn T2. Căn cứ vào Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”; Bà Nguyễn Thị M là nguyên đơn, ông Phạm Văn T2 là bị đơn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị M nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với ông Phạm Văn T2 có địa chỉ thường trú và hiện đang cư trú tại tổ 12, Khu phố 4B (cũ là tổ 8B, Khu phố 4), phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

[3] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị M có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Phạm Văn T2 đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà M, ông T2 theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị M và ông Phạm Văn T2 kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đã được Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 103 ngày 19/11/2004 nên áp dụng Điều 9, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà M, quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian đầu sau đó thì mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, xung đột cãi vã lẫn nhau. Nay bà M xác định không còn tình cảm nên xin được ly hôn với ông T2.

Tòa án đã nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập ông T2 đến Tòa làm việc nhưng ông T2 vẫn vắng mặt không lý do, không có ý kiến phản hồi thể hiện việc ông T2 không tích cực trong việc hòa giải, hàn gắn quan hệ vợ chồng, không thiết tha cuộc sống hôn nhân với bà M. Qua kết quả xác minh tại nơi cư trú ngày 27/4/2022 thì địa phương không nắm rõ mâu thuẫn giữa vợ chồng bà M và ông T2 do không thấy trình báo. Đề nghị Toà án căn cứ vào lời khai của các đương sự và các chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.

Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà M, ông T2 là có thật, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà M, giải quyết cho bà M được ly hôn với ông T2 để trả tự do cả hai là phù hợp.

[5] Về con chung: Bà M và ông T2 có hai con chung là Phạm Văn D, sinh năm 1989 và Phạm Tuấn A, sinh năm 1995. Các con đã trưởng thành và tự lao động, nuôi sống bản thân nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Do chưa có lời khai của ông T2 nên tách ra giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác nếu sau này các đương sự có yêu cầu.

[7] Về án phí: Bà M phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220, Điều 238, Điều 266, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M. Bà Nguyễn Thị M được ly hôn với ông Phạm Văn T2.

2. Về con chung: Bà M và ông T2 có hai con chung là Phạm Văn D, sinh năm 1989 và Phạm Tuấn A, sinh năm 1995. Các con đã trưởng thành và tự lao động, nuôi sống bản thân nên không xem xét giải quyết

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị M phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001976 ngày 25/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 228/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:228/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về