Bản án về tranh chấp ly hôn số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 473/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Đinh Thị N, sinh năm 1994.

Trú tại: Số T, Tổ A, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng

2. Bị đơn: Ông Chế Quang T, sinh năm 1987.

Trú tại: Số B, thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 01/11/2021, bản tự khai và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn bà Đinh Thị N trình bày: Bà và ông Chế Quang T kết hôn vào năm 2013, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ. Hôn nhân giữa ông bà hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới hỏi, có thời gian tìm hiểu trong 05 năm. Sau khi cưới vợ chồng cùng chung sống cùng gia đình chồng tại số Số B, thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đến năm 2018 chuyển ra sống riêng tại thôn L, xã P, huyện Đ. Quá trình vợ chồng chung sống từ năm 2016 thì ông T sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh còn bà cùng con sinh sống tại gia đình chồng, vợ chồng sống hạnh phúc; từ năm 2019 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do ông T sống vô tâm, không có trách nhiệm và thiếu sự quan tâm đối với vợ con nên cuộc sống chung không hòa hợp, không có hạnh phúc, tình cảm rạn nứt không thể hàn gắn được. Ông bà sống ly thân từ năm 2019 và từ năm 2020 vợ chồng không liên lạc, không có sự quan tâm, trách nhiệm đối với nhau, đến nay vợ chồng không thể tiếp tục chung sống và duy trì quan hệ hôn nhân. Ông T có yêu cầu hòa giải nhưng vợ chồng không nói chuyện với nhau, tình trạng hôn nhân không được cải thiện. Hiện nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Chế Quang T.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 do ông T trực tiếp nuôi và Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020 do bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020 và đồng ý giao ông T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 cho đến ngày các con chung thành niên; không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình làm việc tại Tòa án và lời khai tại phiên tòa, bị đơn ông Chế Quang T trình bày: Hôn nhân giữa ông bà hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc từ khi cưới đến tháng 6 năm 2021 phát sinh mâu thuẫn. Trong thời gian vừa qua do tình hình dịch bệnh kinh tế khó khăn và vợ chồng sinh sống xa nhau nên tình cảm vợ chồng suy giảm dẫn đến nhiều hiểu lầm, bất đồng về kinh tế, bà N không có sự thông cảm, chia sẻ nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Hiện nay vợ chồng không cùng chung sống, không thể nói chuyện với nhau được và bà Đinh Thị N không có thiện chí hòa giải, cương quyết ly hôn. Ông không đồng ý với yêu cầu ly hôn của bà N vì lý do ly hôn không chính đáng. Ông có phương án vợ chồng sinh sống gần nhau để cùng chia sẻ công việc gia đình nhưng bà N cố chấp không chấp nhận. Hiện nay ông xác tình cảm vợ chồng vẫn còn, ông yêu thương vợ con; mâu thuẫn không trầm trọng nên ông yêu cầu hòa giải đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 đang do ông trực tiếp nuôi dưỡng và Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020 đang do bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, ông đồng ý giao bà N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020 và ông T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 cho đến ngày các con chung thành niên; không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn yêu cầu hòa giải, đoàn tụ gia đình.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng:

Việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết đúng theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định đúng tư cách tố tụng theo quy định tại Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc xác minh thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ đúng quy định Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự; trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đúng quy định tại Điều 208 đến Điều 211 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị N, cho bà Đinh Thị N được ly hôn ông Chế Quang T. Về con chung: giao bà Đinh Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020 và giao ông Chế Quang T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 cho đến ngày các con chung thành niên; không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xác định đây là vụ án “Ly hôn” giữa nguyên đơn bà Đinh Thị N và bị đơn ông Chế Quang T theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị N và ông Chế Quang T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, có tổ chức lễ cưới theo phong tục. uá trình ông bà chung sống phát sinh mâu thuẫn trầm trọng từ năm 2019. Nguyên nhân mâu thuẫn theo nguyên đơn trình bày do bị đơn sống vô tâm, không có trách nhiệm đối với vợ con nên cuộc sống chung không hòa hợp, không có hạnh phúc, tình cảm rạn nứt không thể hàn gắn được đến nay vợ chồng không thể tiếp tục chung sống và duy trì quan hệ hôn nhân, bị đơn có yêu cầu hòa giải nhưng vợ chồng không nói chuyện với nhau, tình trạng hôn nhân không được cải thiện; theo bị đơn trình bày nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng sinh sống xa nhau nên tình cảm suy giảm dẫn đến nhiều hiểu lầm, bất đồng về kinh tế, nguyên đơn không có sự thông cảm, chia sẻ. Hội đồng xét xử x t thấy tình trạng hôn nhân của ông bà hiện nay không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau, vợ chồng đã chấm dứt cuộc sống chung không còn sự quan tâm và trách nhiệm đối với nhau; bị đơn có yêu cầu đoàn tụ gia đình nhưng không thực hiện biện pháp hòa giải để giải quyết mâu thuẫn. Hội đồng xét xử xác định hôn nhân giữa bà Đinh Thị N và ông Chế Quang T mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không có khả năng hòa giải đoàn tụ nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Đinh Thị N được ly hôn ông Chế Quang T là phù hợp và đúng pháp luật.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 và Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020 nên ông bà đều có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy hiện nay nguyên đơn đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu K và bị đơn đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu L đảm bảo điều kiện phát triển bình thường và đều có yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng các con chung cho đến ngày thành niên. Để đảm bảo cho việc ổn định cuộc sống, phát triển bình thường các con chung cần giao bà Đinh Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020 và giao ông Chế Quang T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 cho đến ngày các con chung thành niên; không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp, đúng quy định pháp luật.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông bà không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Đinh Thị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 71, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, 220, 227, 228, 264, 266, 267 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị N về việc ly hôn, cho ly hôn giữa bà Đinh Thị N và ông Chế Quang T.

2. Về con chung:

Giao bà Đinh Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung Chế Đăng K, sinh ngày 12/01/2020; giao ông Chế Quang T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Chế Ngọc Diệu L, sinh ngày 22/02/2014 cho đến ngày các con chung thành niên.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; quyền yêu cầu cấp dưỡng được thực hiện theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình.

3. Về án phí: Buộc bà Đinh Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo phiếu thu số 0007902 ngày 17/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Trọng. Bà Đinh Thị N đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Trọng - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về