Bản án về tranh chấp ly hôn số 206/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 206/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 03 năm 2022, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 142/2021/TLST- HNGĐ ngày 22/02/2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/02/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07/3/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Công D, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Ông D có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Đỗ Thị Xuân H, sinh năm: 1986; Địa chỉ: C11/17S ấp B, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà H vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 06/11/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn ông Phạm Công D trình bày:

Ông và bà Đỗ Thị Xuân H bắt đầu sống chung với nhau vào năm 2008, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện M, tỉnh S vào ngày 20/7/2009. Thời gian đầu, ông và bà H chung sống bình thường, không có vấn đề gì xảy ra. Đến cuối năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng vấn đề tài chính và thường xuyên cãi nhau. Ông và bà H sống ly thân từ thàng 01 năm 2019 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà Đỗ Thị Xuân H.

Về con chung, ông và bà H chung sống có một con chung tên Phạm Tuấn H1, sinh ngày 27/6/2009, hiện con đang ở với bà H, vì vậy khi ly hôn ông yêu cầu giao cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông, ông sẽ lo cho con theo khả năng của mình.

Về tài sản chung, ông D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, ông D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho bà Đỗ Thị Xuân H gồm: thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bà Đỗ Thị Xuân H vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Nguyên đơn ông Phạm Công D khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn bà Đỗ Thị Xuân H. Theo kết quả trả lời xác minh của Công an xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thì bà Đỗ Thị Xuân H hiện thực tế ở và đăng ký cư trú tại nhà C11/17S ấp A, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của các đương sự:

- Nguyên đơn ông Phạm Công D có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông D theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn bà Đỗ Thị Xuân H, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự cho bà Đỗ Thị Xuân H nhưng bà H vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 42-2009, Quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã G, huyện M, tỉnh S cấp ngày 20/7/2009 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa ông D và bà H là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9, Điều 11 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

[5] Theo trình bày của ông D xác định giữa ông và bà H phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do giữa hai vợ chồng bất đồng về vấn đề tài chính, đã từ lâu vợ chồng sống ly thân không còn sự chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn. Vì vậy, ông D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà H. Còn bà H vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, không thể hiện ý kiến, yêu cầu về các yêu cầu khởi kiện của ông D.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù theo kết quả trả lời xác minh Ủy ban nhân dân xã V, huyện Bình Chánh tại Công văn số 4638/UBND ngày 06/12/2021 xác nhận trong quá trình chung sống giữa ông D và bà H chưa phát sinh mâu thuẫn. Tuy nhiên, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì bà H vắng mặt, như vậy, mâu thuẫn giữa ông D và bà H là có diễn ra. Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa ông D và bà H đã không đạt được, đời sống chung giữa hai vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài. Do đó, ông D yêu cầu ly hôn đối với bà H là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về con chung: Ông D xác nhận giữa ông và bà H có một con chung tên Phạm Tuấn H1, sinh ngày 27/6/2009. Khi ly hôn, ông D yêu cầu giao con cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông D.

[7.1] Về quyền nuôi con sau khi ly hôn, Hội đồng xét xử nhận định: Theo xác nhận của ông D thì hiện cháu Phạm Tuấn H1 đang sống cùng bà H. Do vậy, theo quy định khoản 1, khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử xem xét khả năng của các đương sự về việc đảm bảo cuộc sống ổn định, tinh thần cho con sau khi ly hôn nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao con chung tên Phạm Tuấn H1 cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp.

[7.2] Về cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn: Bà H vắng mặt không thể hiện ý kiến của mình về cấp dưỡng nuôi con, còn ông D đề nghị tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông, ông sẽ lo cho con theo khả năng của mình. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giải quyết yêu cầu này theo ý kiến của ông D, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông D.

[8] Về tài sản chung: Ông D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn bà H vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của bà về tài sản chung giữa bà và ông D. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung theo yêu cầu của ông D, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[9] Về nợ chung: Ông D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn bà H vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của bà về nợ chung giữa bà và ông D. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề nợ chung theo yêu cầu của ông D, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn ông Phạm Công D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

[11] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 179, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9, Điều 11 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Công D đối với bị đơn bà Đỗ Thị Xuân H về việc tranh chấp ly hôn.

1.1 Về hôn nhân: Ông Phạm Công D được ly hôn với bà Đỗ Thị Xuân H. Quan hệ hôn nhân giữa ông Phạm Công D và bà Đỗ Thị Xuân H chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 42-2009, Quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã Gia Hòa 1, huyện M, tỉnh S cấp ngày 20/7/2009 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2 Về con chung: Ông Phạm Công D và bà Đỗ Thị Xuân H có một con chung tên Phạm Tuấn H1, sinh ngày 27/6/2009. Giao con chung tên Phạm Tuấn H1 cho bà Đỗ Thị Xuân H tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Phạm Công D.

Ông Phạm Công D có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1.3 Về tài sản chung: Ông Phạm Công D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

1.4 Về nợ chung: Ông Phạm Công D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí: Nguyên đơn ông Phạm Công D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà ông D đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0080953 ngày 02/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông D đã nộp đầy đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 206/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:206/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về