TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 18/2024/HNGĐ-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 27 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 07/2024/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số: 10/2024/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1987 (có mặt).
Địa chỉ: khu vực BK, phường P, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
Bị đơn: Ông Bùi Trung HI, sinh năm 1987 (vắng mặt)
Địa chỉ: khu vực BK, phường P, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/01/2024 và quá trình giải quyết, nguyên đơn bà Lê Thị H trình bày: Vào năm 2012 bà và ông Bùi Trung HI do mai mối và cả hai đồng ý tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
Thời gian đầu chung sống hạnh phúc có 02 người con chung tên Bùi Lê Huy T, sinh ngày 22/10/2013 và Bùi Lê Khánh TH, sinh ngày 02/3/2020 nhưng từ khi sinh con đầu lòng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông HI thường xuyên tụ tập ăn nhậu không quan tâm lo lắng gì cho vợ con, vì hạnh phúc gia đình bà cố gắn nhẫn nhịn để mong ông HI hồi tâm sửa đổi, đến khi sinh con thứ hai năm 2020 nhưng ông HI vẫn không thay đổi mà ngược lại tụ tập ăn nhậu ngày càng nhiều hơn, khi say sỉn thì ông HI có những lời lẽ nhục mạ danh dự nhân phẩm của bà, từ đó hạnh phúc gia đình thật sự rạng nứt.
Đến nay, xét thấy tình cảm vợ cH không còn nên bà khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Bùi Trung HI.
Về con chung: Có 02 người con chung tên Bùi Lê Huy T, sinh ngày 22/10/2013 và Bùi Lê Khánh TH, sinh ngày 02/3/2020. Khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi dưỡng 02 người con đến trưởng thành. Không yêu cầu ông HI cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Bùi Trung HI đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần nhưng ông HI đều vắng mặt không rõ lý do.
Tại phiên tòa bà Lê Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Lê Thị H và ông Bùi Trung HI do mai mối tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, có phát sinh mâu thuẫn nên chị Tươi khởi kiện yêu cầu ly hôn. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Bùi Trung HI đã được triệu tập hợp lệ nhưng ông HI vắng mặt không rõ lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông HI theo quy định tại Điều 227; 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Xét quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H và ông Bùi Trung HI chung sống với nhau vào năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, quận Ô Môn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống ông bà phát sinh mâu thuẫn. Bà H cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do ông HI thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu, không lo làm ăn, không quan tậm vợ con, ngoài ra khi say sỉn ông HI có lời lẽ xúc phạm bà nên bà thấy tình cảm vợ cH ngày càng xa cách đến nay không còn tình cảm với nhau.
Quá trình giải quyết vụ án ông HI đã được Toà án triệu tập hòa giải để động viên vợ cH đoàn tụ nhưng ông HI cố tình vắng mặt không rõ lý do. Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông HI đã thật sự trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị H.
[4] Về con chung: Có 02 người con tên Bùi Lê Huy T, sinh ngày 22/10/2013 và Bùi Lê Khánh TH, sinh ngày 02/3/2020. Tại bản tự khai ngày 27 tháng 02 năm 2024 cháu Bùi Lê Huy T có nguyện vọng được chung sống với bà H, đối với cháu Khánh TH còn nhỏ và là nữ nên việc chăm sóc do người mẹ là phù hợp. Do đó, bà H yêu cầu được nuôi dưỡng 02 người con chung là có cơ sở chấp nhận.
Song, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con là người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung; không ai được quyền cản trở ông Bùi Trung HI thực hiện quyền này.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Lê Thị H không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
[5] Về tài sản chung: Không có, không xem xét.
[6] Về nợ chung: Không có, không xem xét.
Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.
[7] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, Căn cứ vào các Điều:
QUYẾT ĐỊNH
- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H.
- Về hôn nhân: Bà Lê Thị H được ly hôn với ông Bùi Trung HI.
- Về con chung: Giao cháu Bùi Lê Huy T, sinh ngày 22/10/2013 và Bùi Lê Khánh TH, sinh ngày 02/3/2020 cho bà Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến trưởng thành. Ông Bùi Trung HI không phải cấp dưỡng nuôi con.
Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông Bùi Trung HI, không ai được quyền cản trở ông HI thực hiện quyền này.
- Về tài sản chung: Không có, không xem xét giải quyết.
- Về nợ chung: Không có, không xem xét giải quyết.
Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.
- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí, lệ phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004451 ngày 08/01/2024 của Chi cục thi hành án dân sự quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ (công nhận bà H đã nộp xong).
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 18/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 18/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về