TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ - TỈNH L
BẢN ÁN 16/2024/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 11 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh L; xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 715/2023/TLST - HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2023/QĐXXST - HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2024/QĐST - HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương T, sinh năm: 1999 (có mặt). Địa chỉ: Số 499 Đa Thiện, Phường K, thành phố Đ, tỉnh L.
Bị đơn: Anh Võ Hồng V, sinh năm: 1997 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số 499 Đa Thiện, Phường K, thành phố Đ, tỉnh L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương T thì: Chị và anh Võ Hồng V kết hôn năm 2018; đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ea Kuăng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk; hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi cưới vợ chồng sống chung tại số 499 Đa Thiện, Phường 8, thành phố Đ, tỉnh L. Cuộc sống chung hòa thuận hạnh phúc đến khoảng năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh V thường xuyên nhậu nhẹt, không có trách nhiệm với vợ con và còn có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị đã từng gửi đơn ly hôn và anh V không đồng ý ly hôn nên chị đã rút đơn, nhưng sau đó tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện mà ngày càng mâu thuẫn nhiều hơn, anh V không thay đổi bản thân. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V để chị sớm ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Võ Minh K, sinh ngày 27/5/2019, hiện nay con đang sống cùng chị. Ly hôn chị có nguyện vọng được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Vợ chồng chị không có tài sản chung gì, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Vợ chồng chị không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tiếp cận chứng cứ và hòa giải nhưng anh V vắng mặt nên việc hòa giải không thành.
Tại phiên tòa, chị T xác định hiện vợ chồng chị đã sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn, chị giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh V. Về con chung chị T xác định vợ chồng có 01 con chung là Võ Minh K, sinh ngày 27/5/2019, hiện nay con đang sống cùng chị. Ly hôn chị T có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung đến khi con thành niên, không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con.
Bị đơn anh V đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng trình tự phiên toà sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự có mặt tại phiên tòa đã chấp hành đúng nội quy phiên toà, đương sự vắng mặt đã được tống đạt thủ tục đầy đủ đúng quy định. Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Phương T, cho chị T được ly hôn với anh V; về con chung: Giao con chung Võ Minh K, sinh ngày 27/5/2019 cho chị T được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, về tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Giữa chị Nguyễn Thị Phương T và anh Võ Hồng V kết hôn với nhau vào năm 2018, quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, chị T đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh V, nên xác định quan hệ tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật dân sự năm 2015; bị đơn anh V hiện cư trú tại Phường 8, thành phố Đ, nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh L có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nói trên.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Võ Hồng V đã được triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tham gia phiên tòa hôm nay nhưng vắng mặt nên căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 cần xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung là phù hợp.
[3] Về nội dung:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh V kết hôn với nhau năm 2018 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ea Kuăng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Theo trình bày của chị T thì vợ chồng chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh V thường xuyên nhậu nhẹt, không có trách nhiệm với vợ con và còn có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị đã từng gửi đơn xin ly hôn, do anh V không đồng ý ly hôn nên chị đã rút đơn để cho anh V cơ hội hàn gắn tình cảm, nhưng sau khi chị rút đơn thì tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện mà ngày càng mâu thuẫn nhiều hơn, anh V vẫn không thay đổi bản thân. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh V không đến để hòa giải cũng thể hiện anh V không có thiện chí để hàn gắn tình cảm vợ chồng, quá trình làm việc và tại phiên tòa hôm nay chị T xác định không còn tình cảm với anh V, vợ chồng đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm lẫn nhau và chị cương quyết yêu cầu được ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh V đã trầm trọng kéo dài, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, xử cho chị T và anh V được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.
[3.2] Về con chung: Chị T xác định vợ chồng có 01 con chung là Võ Minh K, sinh ngày 27/5/2019, hiện đang sống cùng chị. Quá trình giải quyết vụ án chị T có nguyện vọng được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên; xét thấy cháu K còn nhỏ, hiện đang sống cùng chị T, nên cần tiếp tục giao con chung Võ Minh K cho chị T được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 là phù hợp.
Về việc cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án chị T không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3.3] Về tài sản chung: Chị T xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3.4] Về nợ chung: Chị T xác định không có nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147; khoản 2 Điều 227 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 51; Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn” của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương T đối với bị đơn anh Võ Hồng V.
Xử :
1/Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Phương T và anh Võ Hồng V được ly hôn.
2/Về con chung: Giao con chung Võ Minh K, sinh ngày 27/5/2019 cho chị T được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi con thành niên, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.
Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
3/Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0002919 ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, chị T đã nộp đủ án phí.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (11/3/2024). Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 16/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 16/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về