Bản án về tranh chấp ly hôn số 16/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 16/2024/HNGĐ-ST NGÀY 13/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 13 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 325/2023/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Bảo Tr, sinh năm 2002 (có mặt).

Địa chỉ: Khu vực Long Thành, phường LH, quận Ô Môn, thành phố C.

Chổ ở: khu vực Thới Hưng, phường LH, quận Ô Môn, thành phố C. Bị đơn: Anh Nguyễn Phương N, sinh năm 1993 (có mặt).

Địa chỉ: Khu vực Long Thành, phường LH, quận Ô Môn, thành phố C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Bảo Tr trình bày: Nguyên vào năm 2021, chị và anh Nguyễn Phương N do mai mối rồi tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường LH theo quy định.

Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, đến đầu năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về cuộc sống, thường bất hòa về tình cảm nên thường xuyên cải vã nhau. Chị đã cố hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn càng trầm trọng hơn nên chị đã dọn về nhà cha mẹ ruột và sống ly thân từ tháng 7/2023 đến nay. Xét thấy không còn tình cảm và không thể nào chung sống với nhau được nữa. Nay chị xin được ly hôn với anh N.

- Về con chung: Có một con tên Nguyễn Huỳnh Thiên K (nữ), sinh ngày 16/02/2023, hiện chị đang nuôi. Khi ly hôn, chị xin được tiếp tục nuôi con đến trưởng thành, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Phương N trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Huỳnh Thị Bảo Tr về quá trình hôn nhân. Quá trình chung sống, đến ngày 09/8/2023 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường bất hòa về tình cảm nên thường xuyên cải vã nhau, anh có giành thời gian để hàn gắn hạnh phúc nhưng không có kết quả nên chị Tr bỏ về nhà cha mẹ ruột sống và ly thân từ đó đến nay. Nay anh còn thương vợ, thương con nên anh không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Có một con tên Nguyễn Huỳnh Thiên K (nữ), sinh ngày 16/02/2023, hiện chị Tr đang nuôi. Trường hợp chị Tr cương quyết ly hôn, anh xin được tiếp tục nuôi con đến trưởng thành, không yêu cầu chị Tr cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Thống nhất không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: chị Huỳnh Thị Bảo Tr và anh Nguyễn Phương N tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, có phát sinh mâu thuẫn nên chị Tr khởi kiện yêu cầu ly hôn. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét quan hệ hôn nhân: chị Huỳnh Thị Bảo Tr và anh Nguyễn Phương N chung sống với nhau vào năm 2021 có đăng ký kết hôn tại UBND Phường LH, quận Ô Môn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn. Chị Tr cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên chị Tr đã bỏ nhà về gia đình cha mẹ ruột của chị từ đầu năm 2023 đến nay. Trong suốt quá trình ly thân không ai quan tâm đến ai. Đồng thời, anh N cho rằng anh còn thương vợ, thương con nên không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian dài giữa chị Tr và anh N ly thân nhau anh N không đưa ra được biện pháp để khắc phục mâu thuẫn, hàn gắn hạnh phúc gia đình.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa anh N và chị Tr thật sự trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không đạt, không thể kéo dài. Do đó, yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Bảo Tr là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: có 01 người con tên Nguyễn Huỳnh Thiên K (nữ), sinh ngày 16/02/2023. Xét thấy, hiện tại cháu Thiên K do chị Bảo Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chị Tr có nguyện vọng yêu cầu được tiếp tục nuôi con đến trưởng thành. Cháu Thiên K thời điểm hiện nay dưới 36 tháng tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình “ Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.” Như vậy, việc giao cháu Nguyễn Huỳnh Thiên K cho chị Huỳnh Thị Bảo Tr trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án xem xét. Do đó, Hội đồng xét xử không xm xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Các đương sự thống nhất không có, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình và án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều:

- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 235, 266, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Bảo Tr.

- Về hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Bảo Tr được ly hôn với anh Nguyễn Phương N.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Huỳnh Thiên K (nữ), sinh ngày 16/02/2023 cho chị Huỳnh Thị Bảo Tr trực tiếp nuôi dưỡng đến trưởng thành. Anh Nguyễn Phương N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Nguyễn Phương N không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Bảo Tr phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí, lệ phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004323 ngày 27/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn, thành phố C (công nhận chị Tr đã nộp xong).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố C giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 16/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:13/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về