Bản án về tranh chấp ly hôn số 155/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 155/2023/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 531/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2023/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2023 và Thông báo thay đổi ngày xét xử số 05/TB-TA ngày 23/3/2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phạm Thị T, sinh năm xxxx; (Có mặt) Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Trần Văn N, sinh năm xxxx; (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp G, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị T trình bày:

Chị T và anh N chung sống với nhau từ tháng 12 năm 1995, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Tăng Hòa vào năm 2003. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh N thường xuyên uống rượu bia với bạn bè, thường xuyên chửi bới, đánh đập chị T và các con, chị T đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh N vẫn không thay đổi. Chị T đã chịu đựng bạo lực gia đình suốt 10 năm nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa. Nay chị T quá sức chịu đựng cảnh bạo lực gia đình. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị T yêu cầu ly hôn với anh N.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Thị Thu H, sinh năm xxxx và Trần Thị Hương L, sinh năm xxxx. Các con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn anh Trần Văn N vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn mặc dù Tòa đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bị đơn.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị T, cho chị T được ly hôn với anh N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Phạm Thị T yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Trần Văn N, ngụ tại ấp G, xã T, huyện G nên đây là quan hệ “Tranh chấp ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Bị đơn anh Trần Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng anh N vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản thể hiện ý kiến của anh N đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Văn N.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Trần Văn N có tổ chức cưới và đăng ký kết hôn nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy đinh Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét yêu cầu ly hôn của chị T, căn cứ vào lời khai của chị, Hội đồng xét xử nhận thấy, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh N thường xuyên uống rượu bia với bạn bè, thường xuyên chửi bới, đánh đập chị T và các con, chị T đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh N vẫn không thay đổi. Chị T đã chịu đựng bạo lực gia đình suốt 10 năm nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa. Nay chị T quá sức chịu đựng cảnh bạo lực gia đình, tình cảm vợ chồng không còn. Từ những tình tiết nêu trên, cho thấy hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T với anh N là có căn cứ và phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Anh chị chung sống có 02 con chung tên Trần Thị Thu H, sinh năm xxxx, Trần Thị Hương L sinh năm 2000. Các con chung đã trưởng thành, chị T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Chị Phạm Thị T có yêu cầu ly hôn nên chị T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[2.5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[3] Về đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Trần Văn N được ly hôn.

2. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0028400 ngày 23/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Như vậy, chị Phạm Thị T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên tòa và kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 155/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:155/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Đông - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về