Bản án về tranh chấp ly hôn số 150/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 150/2024/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 268/2024/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 193/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng D, sinh năm 1972; địa chỉ: Số E đường D, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. - Bị đơn: Ông Phạm Khắc H, sinh năm 1958; địa chỉ: Số E đường D, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/6/2024 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi (Nguyễn Thị Hồng D) và ông Phạm Khắc H tự nguyện tìm hiểu nhau khoảng vài tháng thì tiến đến kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình theo giấy chứng nhận kết hôn số 20 ngày 03/9/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cách làm ăn kinh tế nên thường xuyên cãi nhau, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông H.

+ Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Quyền và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng, bị đơn ông Phạm Khắc H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện do nguyên đơn cung cấp. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông H để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 02/8/2024; tham gia phiên tòa vào các ngày 23/8/2024 và 12/9/2024 nhưng ông H vắng mặt không có lý do. Đồng thời, ông H cũng không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà D.

- Ngày 15/7/2024 Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống giữa bà D và ông H tại Hội liên hiệp phụ nữ phường A và được cung cấp như sau: Trước khi khởi kiện ly hôn tại Tòa án, bà D và ông H không có yêu cầu địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Quá trình chung sống thì vấn đề mâu thuẫn, nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn thì Hội liên hiệp phụ nữ phường không rõ vì không có thông tin cung cấp từ đại diện khu phố cũng như người dân phản ánh. Đề nghị Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án theo quy định.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật về tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng D có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải; bị đơn ông Phạm Khắc H đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt hai lần liên tiếp không có lý do chính đáng. Căn cứ các Điều 207, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án không tiến hành hòa giải được và Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông H là vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 20 do Ủy ban nhân dân xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình cấp ngày 03/9/2019 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà D xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cách làm ăn kinh tế nên thường xuyên cãi nhau, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay bà D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với ông H.

Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng cần phải thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Bà D xác định quan hệ hôn nhân của vợ chồng có nhiều mâu thuẫn và hiện cả hai đều không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Ông H đã được Tòa án triệu tập làm việc và tham gia hòa giải cũng như tham gia phiên tòa trong vụ án nhưng đều vắng mặt không có lý do, không có văn bản trình bày ý kiến gửi cho Tòa án cũng như không thể hiện ý muốn hòa giải đoàn tụ. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa bà D, ông H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bà D yêu cầu được ly hôn với ông H là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về việc giải quyết vụ án.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Hồng D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng D về việc tranh chấp ly hôn đối với bị đơn ông Phạm Khắc H.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hồng D được ly hôn với ông Phạm Khắc H (Giấy chứng nhận kết hôn số 20 do Ủy ban nhân dân xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình cấp ngày 03/9/2019).

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Hồng D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001112 ngày 02/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 150/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:150/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về