Bản án về tranh chấp ly hôn số 148/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

 BẢN ÁN 148/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 29 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 300/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1300/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 1337/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Kim N, sinh năm 1984; Địa chỉ: Chung cư H, phường T, Quận  AThành phố Hồ Chí Minh. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Ông Đặng Hoàng S, sinh năm 1965; Địa chỉ: 255/13 Đường Đ, phường P, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20 tháng 10 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Nguyễn Kim N trình bày: Nguyên đơn và bị đơn ông Đặng Hoàng S tự nguyện chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 221, quyển số 01/2010 ngày 27 tháng 12 năm 2010. Trong quá trình chung sống, ông bà có một con chung tên Nguyễn Thanh H, sinh ngày 03 tháng 6 năm 2016.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó lại thường xảy ra mâu thuẫn do không hợp nhau về tính cách, quan điểm sống, hai bên đã cố hàn gắn nhưng không có kết quả, đã sống ly thân gần sáu năm nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không có khả năng hàn gắn, không thể quay lại chung sống nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với bị đơn.

Về nuôi con: Nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thanh H, sinh ngày 03 tháng 6 năm 2016. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản khai ngày 05/01/2022 bị đơn ông Đặng Hoàng S trình bày: Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn. Nguyên đơn không trực tiếp nuôi con mà đưa con về cho ông bà ngoại chăm sóc, nuôi dưỡng ở tỉnh Tiền Giang. Bị đơn không được tạo điều kiện thăm nuôi, chăm sóc con.

Ngoài ra bị đơn không nộp tài liệu, chứng cứ để chứng minh lời trình bày của mình là có cơ sở mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng liên quan.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vắng mặt có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

[1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có hộ khẩu thường trú tại 255/13 Đường Đ, phường P, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn tự nguyện chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 221, quyển số 01/2010 ngày 27 tháng 12 năm 2010 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hoà giải nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ nhưng phía bị đơn vắng mặt và chỉ nộp bản khai về việc không đồng ý 2 ly hôn với bị đơn. Sau đó bị đơn không đến Tòa án để giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, chứng tỏ bị đơn không có thiện chí muốn hàn gắn và đoàn tụ. Xét thấy sau khi kết hôn, cuộc sống chung không hạnh phúc do khác biệt về tính tình và lối sống, bị đơn không quan tâm chăm sóc gia đình, nguyên đơn đã cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả, tình trạng hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về nuôi con: Căn cứ vào bản sao giấy khai sinh số 85 quyển số 01/2016 ngày 28/7/2016 của Ủy ban nhân dân xã D, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xác định: Cháu Nguyễn Thanh H, giới tính nữ, sinh ngày 03 tháng 6 năm 2016 có mẹ là bà Nguyễn Kim N, không có họ tên người cha. Căn cứ Điều 88 Luật Hôn nhân gia đình do trẻ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng nên xác định cháu Nguyễn Thanh H là con chung của nguyên đơn và bị đơn. Bị đơn có lời khai cho rằng con đang do ông bà ngoại nuôi chứ nguyên đơn không thực tế chăm sóc con, bị đơn không được tạo điều kiện chăm sóc, thăm nuôi con tuy nhiên bị đơn không có yêu cầu, tranh chấp nuôi con đồng thời bị đơn cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh cho thấy nguyên đơn có hành vi cản trở việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của cha mẹ. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án chỉ giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Xét hiện nay nguyên đơn đang là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung nên Hội đồng xét xử xét thấy việc tiếp tục giao con cho nguyên đơn nuôi dưỡng là phù hợp với quyền lợi mọi mặt của con, đúng quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng cho con.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2106 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

3 Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Kim N Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Kim N được ly hôn với ông Đặng Hoàng S. (Giấy chứng nhận kết hôn số 221, quyển số 01/2010 ngày 27 tháng 12 năm 2010 của Ủy ban nhân dân phường P, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật).

Về nuôi con: Giao một con chung tên Nguyễn Thanh H, sinh ngày 03 tháng 6 năm 2016 cho bà Nguyễn Kim N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Kim N không yêu cầu ông Đặng Hoàng S cấp dưỡng cho con.

Không ai được quyền cản trở việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của cha mẹ. Vì quyền lợi của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định việc thay đổi mức cấp dưỡng hoặc người trực tiếp nuôi con.

2. Bà Nguyễn Kim N phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số AA/2021/0005152 ngày 03 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh;

3. Bà Nguyễn Kim N, ông Đặng Hoàng S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 148/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:148/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về