Bản án về tranh chấp ly hôn số 142/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 142/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện C mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 191/2022/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 106/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Út M, sinh năm 1983, (có mặt); Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện C, tỉnh T.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn C, sinh năm 1971, (vắng mặt); Địa caỉ: Ấp B, xã P, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ghi ngày 09/3/2022, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Út M trình bày:

Chị và anh Phạm Văn C xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C. Thời gian đầu, anh chị chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C ghen tuông vô cớ, thường xuyên rượu chè về nhà gây sự xúc phạm danh dự, nhân phẩm của chị và người thân trong gia đình . Mặc dù được hai bên gia đình khuyên nhủ để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh C vẫn không thay đổi mà còn gây sự đến cuộc sống hằng ngày của chị. Hiện chị và anh C đã sống ly thân nhau hơn 01 năm nay.

Nhận thấy, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị xin ly hôn với anh Phạm Văn C.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Như H, sinh ngày 14/5/2005 và Phạm Gia H1, sinh ngày 15/11/2007. Khi ly hôn chị M đồng ý giao 02 con chung cho anh C nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo tờ tự khai ghi ngày 16/5/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Phạm Văn C trình bày:

- Về thời gian kết hôn, con chung như chị M trình bày là đúng. Quá trình chung sống, anh chị có chút mâu thuẫn, anh thừa nhận anh có ghen tuông nói chị M thích người đàn ông khác nhưng anh không có gây sự xúc phạm danh dự, nhân phẩm chị M. Kể từ thời gian xảy ra mâu thuẫn, anh và chị M sống ly thân nhau hơn 01 năm nay, chị M không cho anh cơ hội hàn gắn tình cảm. Nay anh còn thương vợ, thương con rất nhiều nên anh không đồng ý ly hôn với chị M, anh mong muốn chị M cho anh cơ hội sửa chữa lỗi lầm để hàn gắn tình cảm vợ chồng.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Như H, sinh ngày 14/5/2005 và Phạm Gia H1, sinh ngày 15/11/2007 hiện đang sống với anh. Nếu Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn thì anh yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Còn về phần cấp dưỡng nuôi con: Anh chưa yêu cầu chị M phải cấp dưỡng nuôi con chung, chị M có khả năng cho con được gì thì cho.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị M có đơn yêu cầu ly hôn với anh C, bị đơn anh C cư trú tại ấp B, xã P, huyện C, tỉnh T. Do đó, quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là tranh chấp “Xin ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa, anh C vắng mặt lần thứ 2 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, chị M giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh C giữ nguyên ý kiến trình bày. Hội đồng xét xử nhận thấy:

3.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã P, huyện C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 240 vào ngày 26/7/2004, được xem là hôn nhân hợp pháp. Theo lời trình bày của chị M thì mâu thuẫn giữa chị và anh C xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do anh C ghen tuông, thường xuyên gây sự xúc phạm chị. Quá trình giải quyết vụ án, anh C thừa nhận anh có ghen tuông nói chị M thích người đàn ông khác nhưng đó chỉ là mâu thuẫn nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn.

Tại phiên tòa hôm nay, chị M cương quyết xin ly hôn với anh C vì chị đã không còn tình cảm với anh C, chị đã chịu đựng và cho anh C nhiều cơ hội để sửa chữa nhưng anh C vẫn không thay đổi. Quá trình giải quyết vụ án, anh C không đồng ý ly hôn với chị M, anh mong muốn hàn gắn tình cảm với chị M nhưng anh C không đến dự phiên tòa để đưa ra giải pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó cho thấy, anh C không có ý định hàn gắn tình cảm với chị M. Đồng thời căn cứ vào lời khai của chị M thì anh C và chị M đã sống ly thân nhau hơn 01 năm nay. Khoảng thời gian sống riêng, anh C không một lần đến thăm chị hay có hành động nào để chị suy nghĩ mà hàn gắn tình cảm với anh C.

Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau.....”. Do đó, việc anh C và chị M sống ly thân trong thời gian dài, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau chứng tỏ hôn nhân giữa hai người đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc kéo dài hôn nhân sẽ không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, chị M yêu cầu xin ly hôn với anh C là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3.2. Về con chung: Quá trình chung sống chị M và anh C có 02 con chung tên Phạm Như H, sinh ngày 14/5/2005 và Phạm Gia H1, sinh ngày 15/11/2007. Xét thấy, cháu H1 và cháu H hiện đang sống với anh C, cuộc sống sinh hoạt đã ổn định. Tại bản tự khai của cháu H và cháu H1 đều có nguyện vọng sống với anh C. Đồng thời tại văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con ngày 25/4/2022, C quyền địa phương ấp B, xã P xác nhận anh C có đủ điều kiện để nuôi con. Tại phiên hòa giải ngày 16/5/2022, anh C yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H1 và cháu H trong trường hợp Tòa án cho anh C và chị M ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu H và cháu H1 cho anh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

3.3. Về cấp dưỡng: Anh C chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3.4. Về tài sản chung, nợ chung: Chị M, anh C khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị M phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Út M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Út M được ly hôn với anh Phạm Văn C.

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Phạm Như H, sinh ngày 14/5/2005 và Phạm Gia H1, sinh ngày 15/11/2007 cho anh Phạm Văn C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị Nguyễn Thị Út M được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được quyền ngăn cản.

3. Về cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Út M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001978 ngày 04/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T nên chị M đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do C đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 142/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:142/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về