TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 14/2024/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 22 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 633/2023/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2024/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Bà Trần Thị L - Sinh năm 1991 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố 8, phường VH, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
2/ Bị đơn: Ông Phạm Văn T - Sinh năm 1993 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố 12, phường VH, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 10 năm 2023 và trong quá trình tham gia tố tụng, Nguyên đơn là bà Trần Thị L trình bày:
Bà và ông Phạm Văn T tự nguyện tìm hiểu và quen biết nhau khoảng vài tháng tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới; tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2021; đến ngày 02/8/2022 đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường VH, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi tổ chức đám cưới và về chung sống với nhau thì vợ chồng ở nhà cha mẹ của ông T. Vợ chồng chung sống không có hạnh phúc, hay mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông T thường xuyên nhậu nhẹt rồi về nhà gây sự với bà, khi bà khuyên nhủ thì bị ông T chửi bới, đánh đập; vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Do không thể tiếp tục chung sống với ông T nên tháng 10/2023 bà bỏ đi, từ đó ông T nghi ngờ bà ngoại tình; tới nhà bạn của bà đòi đánh, đe dọa sẽ giết bà. Ông T còn thường xuyên nhắn tin xúc phạm, chửi bới và đe dọa bà. Vợ chồng không sống chung đã nhiều tháng nay, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai nấy sống. Bà không còn tình cảm vợ chồng với ông T nữa nên yêu cầu được ly hôn ông T.
Quá trình chung sống bà và ông Phạm Văn T không có con chung nên bà không có yêu cầu gì.
Bà và ông Phạm Văn T không có tài sản chung, nợ chung nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Bà Trần Thị L đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại “Đơn xin xét xử vắng mặt” ngày 22/01/2024, nguyên đơn là bà Trần Thị L vẫn giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện và những ý kiến đã khai tại Tòa án.
Bị đơn là ông Phạm Văn T: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án; Tòa án đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông T không đến Tòa án làm việc và cũng không có ý kiến phản hồi gì liên quan đến tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, cụ thể như sau:
Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.
Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án:
Đ ố i v ới n guyên đơn: Đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Đối với bị đơn: Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thông báo tố tụng tuy nhiên vẫn vắng mặt; không cung cấp ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Trần Thị L. Về hôn nhân: Bà Trần Thị L được ly hôn với ông Phạm Văn T.
Về con chung: Không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Bà Trần Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Phạm Văn T có nơi cư trú tại khu phố 12, phường VH, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS; xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn”; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
[1.2]. Về việc vắng mặt nguyên đơn: Tại “Đơn xin xét xử vắng mặt” ngày 22/01/2024, nguyên đơn là bà Trần Thị L xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện, những ý kiến đã khai tại Tòa án. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của BLTTDS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.
[1.3]. Về việc vắng mặt bị đơn: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cũng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập tham gia phiên tòa cho bị đơn là ông Phạm Văn T nhưng ông T không đến tham gia tố tụng mặc dù đã được tống đạt, triệu tập hợp lệ. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của BLTTDS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị L và ông Phạm Văn T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường VH, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 100/2022, ngày 02/8/2022. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông T là hợp pháp. Bà L và ông T chung sống hạnh phúc được 02 năm thì mâu thuẫn phát sinh và ngày càng trầm trọng, hiện không còn sống chung. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà L là do ông T thường xuyên nhậu nhẹt rồi về nhà gây sự, chửi bới, đánh đập bà; vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Do không thể tiếp tục chung sống với ông T nên tháng 10/2023 bà bỏ đi thì ông T nghi ngờ bà ngoại tình, nhắn tin chửi bới, xúc phạm và đe dọa bà; vợ chồng bỏ mặc, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông T không đến Tòa án để làm việc, điều này chứng tỏ ông T thiếu thiện chí và không có mong muốn hàn gắn gia đình.
Theo “Đơn xin xác nhận” ngày 20/12/2023, đại diện khu phố 12, phường VH, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm cung cấp thông tin: “... Bà L và ông T chung sống không có hạnh phúc, đến năm 2023 thì nảy sinh mâu thuẫn và kéo dài đến nay không hàn gắn được; nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên cãi vã thường xuyên, hiện ông T và bà L không còn sống chung”.
Xét thấy: Tình trạng mâu thuẫn giữa bà L và ông T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc bà L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T là có cơ sở, phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên yêu cầu ly hôn của bà L được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2]. Về con chung: Bà Trần Thị L xác nhận không có con chung với ông Phạm Văn T, không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Thị L xác nhận không có tài sản chung, nợ chung với ông Phạm Văn T, không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bà Trần Thị L phải chịu toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Trần Thị L.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị L được ly hôn ông Phạm Văn T.
2. Về con chung: Không xem xét, giải quyết.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Bà Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005792 ngày 04/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Trần Thị L đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 14/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 14/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về