Bản án về tranh chấp ly hôn số 14/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 14/2024/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 334/2023/TLST-HNGĐ, ngày 23 tháng 10 năm 2023, về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXXST- HNGĐ, ngày 03 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Mỹ T. Địa chỉ: Ấp PT B, xã PH, huyện CT, tỉnh Hậu Giang; vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Lâm Quang T. Địa chỉ: đường TP, Phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/10/2023 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Phạm Mỹ T trình bày:

Về hôn nhân: Bà T và ông T tự tìm hiểu nhau được khoảng 01 năm thì đi đến kết hôn, có tổ chức lễ cưới, bà T và ông T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 11/7/2019.

Sau khi kết hôn bà T và ông T sống chung với gia đình của bà T tại địa chỉ ấp PT B, xã PH, huyện CT, tỉnh Hậu Giang. Ông bà sống hạnh phúc được khoảng 01 năm đến tháng 01/2020 thì không còn hạnh phúc do bà T và ông T chung sống không hòa hợp với nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau cho nên thường xuyên xảy ra cự cải, giữa bà T và ông T có mâu thuẫn về kinh tế tiền bạc do ông T đi làm nhưng không chu cấp tiền lo cho vợ con cho nên tình cảm vợ chồng không còn nên không thể sống hạnh phúc được nữa.

Khi phát sinh mâu thuẫn bà T cũng có tạo điều kiện cùng nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông T và đồng thời gia đình hai bên cũng có khuyên ngăn nhưng vẫn không hàn gắn được. Bà T và ông T đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2020 cho đến nay. Bà T xác định hiện nay bà không còn tình cảm với ông T vì vậy không thể hàn gắn đoàn tụ với ông T được. Bà cương quyết xin ly hôn và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lâm Quang T theo đơn khởi kiện.

- Về con chung: Bà T và ông T có một con chung tên là Lâm Gia B - sinh ngày 17/01/2019. Hiện nay cháu B đang ở chung với bà T do bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

Khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên là Lâm Gia B - sinh ngày 17/01/2019 và bà T không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện nay bà T đang làm công nhân, thu nhập bình quân mỗi tháng là 7.500.000 đồng/tháng, với mức thu nhập này bà T có đủ khả năng nuôi con và đảm bảo cuộc sống của bà T.

- Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lâm Quang T: Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo ngày mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ nhiều lần nhưng ông T đều vắng mặt, không cung cấp chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền loại việc: Căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[1.2] Về thẩm quyền theo lãnh thổ: Bị đơn ông Lâm Quang T cư trú tại địa chỉ đường TP, Phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.

[1.3] Về sự có mặt của đương sự:

Nguyên đơn bà Phạm Mỹ T có đơn xin vắng mặt phiên tòa đề ngày 15/12/2023.

Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn.

Bị đơn ông Lâm Quang T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[2] Về hôn nhân:

Bà Phạm Mỹ T với ông Lâm Quang T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 11/7/2019. Do đó, quan hệ hôn nhân của bà T và ông T là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn. Bà T xác định vợ chồng ly thân từ tháng 01 năm 2020 cho đến nay.

Đối chiếu với quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”, nhưng giữa bà T và ông T mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, vẫn không hàn gắn được. Như vậy, có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T là có thật, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà T ly hôn với ông T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về nuôi con chung:

Quá trình sống chung bà T và ông T có một người con chung tên là Lâm Gia B - sinh ngày 17/01/2019 chưa thành niên và hiện nay bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, bà T và ông T ly thân từ tháng 01 năm 2020 cho đến nay, trong thời gian đó cháu Gia B sống với bà T, cuộc sống của cháu Gia B đang ổn định, ông T không có liên lạc để thăm con hay phụ giúp tiền nuôi con. Do đó, việc giao cháu Gia B cho bà T được tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông Tỷ phải cấp dưỡng nuôi con, nên nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết.

[4] Về chia tài sản: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về án phí:

Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn được Tòa án chấp nhận, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 273, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, Điều 19, khoản 1 Điều 51, các Điều 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Phạm Mỹ T và ông Lâm Quang T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên là Lâm Gia B - sinh ngày 17/01/2019 cho bà Phạm Mỹ T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Lâm Quang T không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: Bà Phạm Mỹ T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Phạm Mỹ T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Bà Phạm Mỹ T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002445 ngày 12/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V; bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 14/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về