Bản án về tranh chấp ly hôn số 13/2020/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-PT NGÀY 08/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 08 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 131/2019/TLPT-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 1033/2019/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5943/2019/QĐ-PT ngày 09 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Văn Thị N, sinh năm 1972. (Có mặt) Địa chỉ: A6/22M1 ấp M, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn B, sinh năm 1973. (Có mặt) Địa chỉ: F5/30B ấp S, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bị đơn - ông Nguyễn Tấn B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tắt nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

Theo Đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nguyên đơn là bà Văn Thị N trình bày:

Bà và ông Nguyễn Tấn B tự nguyện chung sống vào năm 1994 và kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 46/DP, quyển I/95, ngày 25/9/1995 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh N cấp. Khi bắt đầu cuộc sống hôn nhân, bà và ông B thường hay gây gổ, nguyên nhân là do ông B thường xuyên uống rượu, kiếm chuyện và đánh đập bà. Sau khi bà dọn ra ngoài ở riêng thì mỗi khi ông B uống rượu say lại sang phòng trọ của bà đập đồ đạc. Bà và ông B đã ly thân từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay. Do không còn tình cảm nên bà yêu cầu được ly hôn với ông B.

Bị đơn ông Nguyễn Tấn B trình bày:

Việc chung sống và kết hôn đúng như bà Văn Thị N trình bày. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, không có mâu thuẫn xảy ra. Khoảng hơn ba năm nay bà N dọn ra ngoài sống. Hiện do các con chung còn nhỏ nên ông không đồng ý ly hôn đối với yêu cầu của bà N. Ông yêu cầu được đoàn tụ để vợ chồng cùng nhau nuôi dạy các con.

Về con chung:

Bà N và ông B xác nhận có 05 người con chung, bao gồm: Nguyễn Thị T1, sinh năm 1996 (đã trưởng thành);

Nguyễn Thị Xuân T2, sinh ngày 30/3/2003; Nguyễn Thị Vy T3, sinh ngày 27/5/2005; Nguyễn Thị Ánh T4, sinh ngày 28/01/2008; Nguyễn Ngọc Bảo T5, sinh ngày 11/09/2013.

Bà N yêu cầu được nuôi 04 con chung chưa trưởng thành là các trẻ T2, T3, T4 và T5, do hiện nay các trẻ đang sống cùng bà N, và bà N yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng)/01 trẻ/01 tháng, cho đến khi các trẻ trưởng thành.

Ông B yêu cầu được nuôi cả 04 con chung chưa trưởng thành nếu phải ly hôn, và không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con. Ngược lại nếu bà N trực tiếp nuôi cả 04 trẻ, thì ông B không đồng ý cấp dưỡng.

Về tài sản chung:

Bà N và ông B đều xác nhận tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ dân sự phải thi hành:

Ông B và bà N đều xác nhận không có.

Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 1033/2019/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Áp dụng Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39;

Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015;

Áp dụng Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Ấp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Văn Thị N đối với ông Nguyễn Tấn B. Bà Văn Thị N ly hôn với ông Nguyễn Tấn B. (Giấy chứng nhận kết hơn số 16/TP, quyển số I/95 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh N cấp ngày 25/9/1995 không còn giá trị pháp lý.

2. Về việc nuôi con chung: Giao các con chung là Nguyễn Thị Xuân T2, sinh ngày 30/3/2003, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Vy T3, sinh ngày 27/5/2005, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Ánh T4, sinh ngày 28/01/2008, giới tính: Nữ; Nguyễn Ngọc Bảo T5, sinh ngày 11/9/2013, giới tính: Nữ, cho bà Văn Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ông Nguyễn Tấn B có nghĩa vụ cấp dưỡng cho bà Văn Thị N nuôi trẻ Nguyễn Thị Xuân T2, sinh ngày 30/3/2003, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Vy T3, sinh ngày 27/5/2005, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Ánh T4, sinh ngày 28/01/2008, giới tính: Nữ; Nguyễn Ngọc Bảo T5, sinh ngày 11/9/2013, giới tính: Nữ, mỗi trẻ một tháng là 1.000.000 đồng. Tổng cộng ông B phải cấp dưỡng là 4.000.000 đồng.

Các đương sự thực hiện việc giao nhận tiền cấp dưỡng nuôi con vào ngày 15 hàng tháng, thời gian thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các trẻ T2, T3, T4 và T5 trưởng thành đủ 18 tuổi.

Các bên thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền. Trường hợp ông B không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con thì bà N có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc ông B thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Kể từ ngày bà N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông B chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con thì ông B còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ông B có quyền lui tới thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết hai bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Đối với Nguyễn Thị T1, sinh ngày 05/01/1996, giới tính: Nữ, hiện nay đã trưởng thành nên không xem xét.

3 Về tài sản chung: Ông B và bà N yêu cầu tự thỏa thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Đương sự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Bà N chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, bà N đã nộp đủ án phí.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án theo luật dịnh.

Ngày 01/10/2019, bị đơn ông Nguyễn Tấn B kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu được đoàn tụ gia đình.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn bà N trình bày:

Bà và ông B đã mâu thuẫn nhiều năm, nên việc ông B yêu cầu bà hòa giải đoàn tụ là không thể, bà cương quyết được ly hôn với ông B. Về con chung, tài sản chung và nợ chung, bà yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị đơn ông B trình bày:

Ông kháng cáo toàn bộ bản án, yêu cầu được đoàn tụ gia đình. Ông mong muốn bà N cho ông cơ hội để gia đình đoàn tụ, các con ông còn nhỏ cần sự quan tâm của cha và mẹ. Tại phiên tòa hôm nay ông chỉ có biết vận động bà N quay trở về, còn để làm sao cho bà N thay đổi ý kiến hay làm bằng cách nào thì ông không biết. Ông vẫn còn thương bà N nên ông không đồng ý ly hôn. Về con chung, tài sản chung cũng như nợ chung, ông không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu trình bày ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện C đưa vụ án ra xét xử ngày 27/9/2019, đến ngày 01/10/2019 ông B kháng cáo. Căn cứ Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự kháng cáo trong hạn luật định.

Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Quan hệ hôn nhân của bà N và ông B đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng đã ly thân hai năm nay, ông B tuy yêu cầu hòa giải đoàn tụ, nhưng ông không cho thấy nếu đoàn tụ thì ông cải thiện được mối quan hệ vợ chồng hiện nay của bà N và ông. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông B, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1/ Về tố tụng:

Ngày 27/9/2019, Tòa án nhân dân huyện C, mở phiên tòa sơ thẩm. Ngày 01/10/2019, ông B kháng cáo bản án sơ thẩm số 1033/2019/HNGĐ-ST và đã tạm ứng án phí phúc thẩm. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đơn kháng cáo của ông Nguyễn Tấn B làm trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.

2/ Về nội dung kháng cáo:

Ông Nguyễn Tấn B yêu cầu được đoàn tụ gia đình.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét:

Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hơn số 16/TP, quyển số I/95 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh N cấp ngày 25/9/1995 thì quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Tấn B và bà Văn Thị N là hôn nhân hợp pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông B yêu cầu hòa giải đoàn tụ vì ông còn thương vợ con, nhưng ông không đưa ra được biện pháp nào để cải thiện trình trạng hiện nay giữa ông và bà N.

Hội đồng xét xử xét thấy, cuộc sống hôn nhân có hạnh phúc phải bắt đầu tình cảm từ hai phía. Tại phiên tòa và các chứng cứ cho thấy bà N đã không còn tình cảm với ông B, và cương quyết được ly hôn mặc dù ông B tha thiết yêu cầu được hòa giải đoàn tụ, hai bên đương sự đã ly thân hơn hai năm nay. Tại xác minh của địa phương cho thấy giữa ông B và bà N có mâu thuẫn. Vì vậy, nếu bác đơn khởi kiện ly hôn của bà N để hai bên có thời gian hòa giải đoàn tụ, vẫn không mang lại kết quả mà có thể làm cho quan hệ vợ chồng giữa hai bên càng trầm trọng hơn. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của ông B về việc yêu cầu đoàn tụ gia đình.

Về con chung: Bà N và ông B xác nhận có 05 người con chung là Nguyễn Thị T1, sinh năm 1996 (đã trưởng thành); Nguyễn Thị Xuân T2, sinh ngày 30/3/2003; Nguyễn Thị Vy T3, sinh ngày 27/5/2005; Nguyễn Thị Ánh T4, sinh ngày 28/01/2008 và Nguyễn Ngọc Bảo T5, sinh ngày 11/9/2013. Cả 05 người con đều là nữ, hiện đang cùng sống chung với bà N.

Tại Tòa cấp sơ thẩm, 03 người con chung trên 07 tuổi gồm: Nguyễn Thị Xuân T2, sinh ngày 30/3/2003; Nguyễn Thị Vy T3, sinh ngày 27/5/2005; Nguyễn Thị Ánh T4, sinh ngày 28/01/2008 có nguyện vọng sống cùng mẹ sau khi cha và mẹ ly hôn. Tòa sơ thẩm căn cứ vào điều kiện sống và nguyện vọng của trẻ, đồng thời hiện tại bà N có công việc và thu nhập ổn định, nên giao cả 04 người con chung chưa trưởng thành cho bà N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và ông B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ.

Về tài sản chung: Ông B và bà N yêu cầu tự thỏa thuận, nên Tòa cấp sơ thẩm không xem xét là có căn cứ.

Về nợ chung: Ông B và bà N xác nhận không có, nên Tòa sơ thẩm không xem xét là có căn cứ.

Do đó, căn cứ vào Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng nghị và kháng cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.

Về án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì bà N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận đơn kháng cáo của ông B, nên ông B phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Với những chứng cứ kể trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật Tống tụ dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Áp dụng Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Văn Thị N đối với ông Nguyễn Tấn B. Bà Văn Thị N ly hôn với ông Nguyễn Tấn B. Quan hệ hôn nhân giữa ông B và bà N chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực thi hành (Giấy chứng nhận kết hôn số 16/TP, quyển số I/95 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh N cấp ngày 25/9/1995 không còn giá trị pháp lý).

2. Về việc nuôi con chung: Giao các con chung là Nguyễn Thị Xuân T2, sinh ngày 30/3/2003, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Vy T3, sinh ngày 27/5/2005, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Ánh T4, sinh ngày 28/01/2008; giới tính: Nữ; Nguyễn Ngọc Bảo T5, sinh ngày 11/9/2013, giới tính: Nữ; cho bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Tấn B có nghĩa vụ cấp dưỡng cho bà Văn Thị N nuôi các trẻ Nguyễn Thị Xuân T2, sinh ngày 30/3/2003, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Vy T3, sinh ngày 27/5/2005, giới tính: Nữ; Nguyễn Thị Ánh T4, sinh ngày 28/01/2008; giới tính: Nữ; và Nguyễn Ngọc Bảo T5, sinh ngày 11/9/2013, giới tính:

Nữ; mỗi trẻ một tháng là 1.000.000 đồng. Tổng cộng ông B phải cấp dưỡng là 4.000.000 đồng/tháng.

Phương thức thi hành tiền cấp dưỡng: Các đương sự thực hiện việc giao nhận tiền cấp dưỡng nuôi con vào ngày 15 hàng tháng, thời gian thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các trẻ T2, T3, T4 và T5 lần lượt trưởng thành đủ 18 tuổi.

Các bên thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền. Trường hợp ông B không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con thì bà N có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc ông B thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Kể từ ngày bà N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông B chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con thì ông B còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ông B có quyền lui tới thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết hai bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Đối với Nguyễn Thị T1, sinh ngày 05/01/1996, giới tính: Nữ, hiện nay đã trưởng thành nên không xem xét.

3 Về tài sản chung: Ông B với bà N yêu cầu tự thỏa thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét

4. Về nợ chung: Đương sự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5.Về án phí:

5.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà N phải nộp là 300.000 đồng nhưng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006936 ngày 07/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã nộp đủ án phí.

5.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Tấn B phải nộp 300.000 đồng nhưng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí ông B đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008751 ngày 01/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông B đã nộp đủ án phí.

Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 13/2020/HNGĐ-PT

Số hiệu:13/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về