Bản án về tranh chấp ly hôn số 119/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 119/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TRANH CHẤP  LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 316/2021/TLST- HNGĐ ngày 09/11/2021 về tranh chấp: “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 94/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 09/6/2022, giữa các đương sự:

* Ngun đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1961. (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị T trình bày:

Tôi và ông Nguyễn Văn T sống chung như vợ chồng từ năm 1979, không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông T tính tình vũ phu, thường xuyên say rượu về chửi mắng hành hạ tôi, mặc dù đã nhiều lần khuyên nhũ và cũng vì các con nên tôi cũng cố gắng để vợ chồng hòa hợp, nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: tôi yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

- Về con chung: Có 04 con chung gồm: Nguyễn Thị P, sinh năm 1982, Nguyễn Thị D, sinh năm 1984, Nguyễn Thị L, sinh năm 1986, Nguyễn Thị T, sinh năm 1989. Hiện các con đã trưởng thành nên tôi không yêu cầu giải quyết về con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung:

Tôi xin rút lại toàn bộ yêu cầu chia tài sản chung, để tôi và ông T tự thỏa thuận. (có đơn xin rút kèm theo) + Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo bản tự khai bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Tôi và bà Trần Thị T là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 1979, không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2022 thì có mâu thuẫn, nguyên nhân do kinh tế gia đình không phát triển như trước. Nhưng mâu thuẫn giữa tôi và bà T không lớn, nên:

- Về hôn nhân: tôi không đồng ý ly hôn với bà Trần Thị T.

- Về con chung: có 04 con chung như bà T trình bày là đúng, hiện các con đã trưởng thành nên tôi không có yêu cầu giải quyết về con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa, căn cứ lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Xét thấy bà T và ông T do tìm hiểu tiến đến hôn nhân vào năm 1979, nhưng không có đăng ký kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà T, ông T theo quy định tại Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 thì quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T được xác lập trước ngày 03/01/1987 là hôn nhân thực tế, nên quan hệ giữa bà T và ông T vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng. Bà T xin ly hôn với ông T, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp “Ly hôn” theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Bị đơn ông T có nơi cư trú tại ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu của các bên đương sự: Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Trần Thị T, Hội đồng xét xử nhận thấy:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà T trình bày, vợ chồng bà chung sống từ năm 1979 đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T tính tình vũ phu, thường xuyên nhậu say về đánh chửi bà nhiều lần. Mặc dù đã nhiều lần hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được, vợ chồng đã ly thân từ năm 2020 đến nay. Bà T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T. Bị đơn ông T vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có văn bản trình bày ý kiến: ông không đồng ý ly hôn với lý do mâu thuẫn vợ chồng không lớn, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn từ việc kinh tế gia đình không được phát triển như trước nên dẫn đến việc vợ chồng có cự cãi. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà T và ông T đã phát sinh trong một thời gian dài, nhưng vợ chồng không thể nào hàn gắn tình cảm. Mặc dù đã được Tòa án hòa giải động viên, nhưng bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Từ đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng của bà T và ông T đã đến mức trầm trọng theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T, cho bà T được ly hôn với ông T.

2.2. Về con chung: Có 04 con chung gồm: Nguyễn Thị P, sinh năm 1982, Nguyễn Thị D, sinh năm 1984, Nguyễn Thị L, sinh năm 1986, Nguyễn Thị T, sinh năm 1989. Hiện các con đã trưởng thành nên bà T, ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2.3 Về tài sản chung, nợ chung: Bà T yêu cầu chia đôi các tài sản chung của vợ chồng gồm các thửa đất và nhà. Bà yêu cầu nhận bằng hiện vật, đồng ý hoàn giá trị cho ông T cụ thể như sau: Thửa đất số 44, tờ bản đồ số 25, diện tích 8.777,0m2 tọa lạc ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang, giá trị đất khoảng 100.000.000đ; Thửa đất số 41, tờ bản đồ số 25, diện tích 21.140,0m2, đã chuyển nhượng 01 phần, còn lại diện tích 11.140,0m2 tọa lạc ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang, giá trị đất khoảng 500.000.000đ; Thửa đất số 30, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.294,6m2 tọa lạc ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang giá trị đất khoảng 450.000.000đ; Nhà ở diện tích 200m2 nằm trên thửa đất số 30, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.294,6m2 tọa lạc ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang, giá trị nhà đất khoảng 80.000.000đ, các thửa đất, nhà nêu trên do ông Nguyễn Văn T đứng tên quyền sử dụng đất.

Ngày 25/4/2022 bà Trần Thị T có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể xin rút yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng, với lý do để vợ chồng bà tự thỏa thuận. Xét thấy việc rút yêu cầu này của bà T là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, phía ông T không có yêu cầu phản tố, cũng không có ý kiến đối với đơn xin rút yêu cầu chia tài sản của bà T. Nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự: Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng của bà Trần Thị T.

Về nợ chung: Bà T, ông T cùng thống nhất xác định vợ chồng không có nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Bà Trần Thị T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Trần Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Trần Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Có 04 con chung gồm: Nguyễn Thị P, sinh năm 1982, Nguyễn Thị D, sinh năm 1984, Nguyễn Thị L, sinh năm 1986, Nguyễn Thị T, sinh năm 1989. Hiện các con đã trưởng thành nên không giải quyết về con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung:

- Về tài sản chung: Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng của bà Trần Thị T.

- Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Bà T đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001358 ngày 09/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, cấn trừ nên xem như bà T đã nộp xong án phí hôn nhân sơ thẩm.

Hoàn lại cho bà Trần Thị T số tiền 14.125.000đ, tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001357, ngày 09/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Trần Thị T, ông Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 119/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:119/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về