Bản án về tranh chấp ly hôn số 118/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 118/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 25tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 473/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 245/2022/QĐXX-ST ngày 16 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Bá T, sinh năm 1969; địa chỉ: số 21, đường L, thị trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai; có văn bản xin váng mặt.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị D, sinh năm 1971; địa chỉ: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; có văn bản xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn Trần Bá T trình bày: Ông và bà Trần Thị D, do quen biết, tìm hiểu nhau và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và sống chung với nhau từ năm 1994, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do không tôn trọng nhau, tính tình không hợp nhau, trong thời gian chung sống thường xảy ra bất hòa, thường xuyên mâu thuẫn không thể giải quyết được, nhận thấy hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bà Trần Thị D; về con chung: có 01 con chung là Trần Quang V, sinh ngày 12/12/1995 (đã trưởng thành, không yêu cầu tòa án giải quyết); về tài sản chung, nợ chung: không có

Bị đơn bà Trần Thị D trình bày: đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Trần Bá T lý do sống chung với nhau không hợp, không tôn trọng nhau, tính tình không hợp nhau; hai người sống chung với nhau như vợ như chồng, không có đăng ký kết hôn; về con chung: có 01 con chung là Trần Quang V, sinh ngày 12/12/1995 (đã trưởng thành, không yêu cầu tòa án giải quyết); về tài sản chung, nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Bá T khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về ly hôn với bà Trần Thị D. Bà D có nơi cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đứng thẩm quyền.

[2] Ông Trần Bá T, bà Trần Thị D có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa ông Trần Bá T và bà Trần Thị D hai người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật cho nên quan hệ hôn nhân giữa hai người không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng, khi có yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn thì Tòa án không công nhận vợ chồng là phù hợp với Điều 14 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Ông Trần Bá T và bà Trần Thị D xác định hai người có 01 con chung là Trần Quang V, sinh ngày 12/12/1995 (đã trưởng thành), không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xét đến.

[5] Về quan hệ tài sản: không có nên không xét đến.

[6] Về nợ chung: không có nên không xét đến.

[7] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điều 14 và 53 Luật Hôn nhân và gia đình;

Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Bá T.

1) Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Trần Bá T và bà Trần Thị D là vợ chồng do hai người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.

2) Về quan hệ con chung: Ông Trần Bá T và bà Trần Thị D xác định hai người có 01 con chung là Trần Quang V, sinh ngày 12/12/1995 (đã trưởng thành), không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xét đến.

3) Về quan hệ tài sản chung: không có nên không xét đến.

4) Về nợ chung: không có nên không xét đến.

5) Về án phí: Ông Trần Bá T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004624 ngày 16/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông Trần Bá T đã nộp đủ.

6) Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt thì thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 118/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:118/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về