Bản án về tranh chấp ly hôn số 115/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 115/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Trực Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 78/2022/TLST-HNGĐ ngày 30/6/2022 về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/9/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1996.

Nơi đăng ký HKTT: Xóm B, xã V, huyện T, tỉnh Nam Định. Hiện trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện T, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1991. Trú tại: Xóm B, xã V, huyện T, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa: Chị G có đơn xin xét xử vắng mặt, anh K vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị G trình bày:

Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn K ngày 11 tháng 12 năm 2014 có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện T, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được thời gian, mâu thuẫn P sinh nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cá tính. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn để yên tâm ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có con chung là Nguyễn Quang P sinh ngày 11 tháng 8 năm 2015. Hiện nay P đang ở với chị, khi ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh K cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị G không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24 tháng 8 năm 2022, bà Hoàng Thị X (là mẹ đẻ anh K) trình bày:

Anh Nguyễn Văn K và chị Nguyễn Thị G kết hôn năm 2014 có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện T, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng gia đình bà. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị G và anh K, bà X không biết. Từ tháng 6 năm 2022 chị G và cháu P đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở Tổ dân phố T, thị trấn C, huyện T, tỉnh Nam Định sinh sống.

Bà X đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án như: Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Bà có thông báo cho anh K biết việc Tòa án gửi cho anh các văn bản trên, anh K có quan điểm: đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng có con chung là Nguyễn Quang P sinh ngày 11 tháng 8 năm 2015. Hiện nay cháu P đang ở với chị G. Anh K đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa của Thẩm phán, HĐXX đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điều 70; 71 BLTTDS.

Bị đơn đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không có mặt để giải quyết, không xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, vắng mặt tại phiên tòa, vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại các điều 70; 72 BLTTDS.

Tòa án hoãn phiên tòa do bị đơn vắng mặt lần thứ nhất, mở lại phiên tòa lần thứ hai xét xử vụ án khi nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 227; 233; 238 BLTTDS.

Về nội dung: Xét thấy hôn nhân giữa chị G anh K đã thực sự tan vỡ, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 51; 56 và Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị G.

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Nguyễn Quang P của chị G. Chấp nhận sự tự nguyện của chị G về việc không yêu cầu anh K cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Anh chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về án phí ly hôn: Chị G phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Hội đồng xét xử nhận định, sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho nguyên đơn, bị đơn theo đúng quy định của pháp luật.

Chị G có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, anh K vắng mặt lần thứ hai không có lý do, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị G anh K là đúng theo quy định tại Điều 227 BLTTDS.

[2] Về tình cảm: Chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn K kết hôn ngày 11 tháng 12 năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh Nam Định, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian, sau đó P sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, cá tính. Chị G đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 6 năm 2022. Anh K cũng không quan tâm đến chị và con. Quá trình Tòa án giải quyết anh K cũng không có mặt.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị G và anh K đã thực sự tan vỡ, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị G là phù hợp với quy định của pháp luật được HĐXX chấp nhận.

[3] Về con chung: Vợ chồng có con chung là Nguyễn Quang P sinh ngày 11 tháng 8 năm 2015. Hiện nay cháu P đang ở với chị G, khi ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh K cấp dưỡng tiền nuôi con.

Xét yêu cầu của các đương sự về việc nhận nuôi con chung, HĐXX xét thấy: Cháu Nguyễn Quang P hiện nay đang ở với chị G. Anh K không có quan điểm về việc nuôi con. Chị G có yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Để đảm bảo việc chăm sóc nuôi dưỡng và ổn định học tập đối với con chung, HĐXX thấy cần giao cháu Nguyễn Quang P cho chị G nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Chấp nhận yêu cầu của chị G về việc không yêu cầu anh K cấp dưỡng tiền nuôi con.

[4] Về tài sản chung, công nợ: Các đương sự không đề nghị giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[5] Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị G phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51; 56; Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng về án phí và lệ phí Toà án:

1. Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Văn K.

2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị G có trách nhiệm nuôi dưỡng con chung Nguyễn Quang P sinh ngày 11 tháng 8 năm 2015. Chấp nhận sự tự nguyện của chị G về việc không yêu cầu anh K cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau ly hôn; không ai được cản trở, không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Án phí: Chị Nguyễn Thị G phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự. Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị G đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002018 ngày 30/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định được trừ vào số tiền án phí chị G phải nộp. Chị G đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị G, anh Nguyễn Văn K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của BLTTDS.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 115/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:115/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về