Bản án về tranh chấp ly hôn số 113/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN

BẢN ÁN 113/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 147/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2022, về việc tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phan Hữu T, sinh năm 1969 Địa chỉ: khóm Đông Th A, phường MT, thành phố LX, tỉnh AG (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1971 (Vắng mặt) Địa chỉ: khóm Tây Kh 4, phường MH, thành phố LX, tỉnh AG Nơi ở hiện nay: phường MP, thành phố LX, tỉnh AG Nơi công tác: Sở GTVT AG. Trụ sở phường MB, thành phố LX, tỉnh AG

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình làm việc tại tòa án nguyên đơn ông Phan Hữu T trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị Thu H tự quen biết nhau, hai bên tự nguyện đi đến hôn nhân, cả hai có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường MP, thành phố LX, tỉnh AG theo giấy đăng ký kết hôn số 127 ngày 10/11/1999.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 19 năm thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt nguyên nhân do không còn tin tưởng về tình cảm, về tiền bạc. Nay, ông yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu H.

- Về con chung: có 02 (hai) con chung tên Phan Minh Kh, sinh ngày 24/8/2000 đã trưởng thành và cháu Phan Ngọc Kh1, sinh ngày 23/6/2008 hiện đang đang sống cùng với bà H thì trước đây ông có ý kiến muốn nuôi dưỡng con sau khi ly hôn nhưng do cháu Ngọc Kh1 đã sống ổn định và ông không muốn con bị ảnh hưởng tâm sinh lý nên đề nghị không tiến hành lấy ý kiến của cháu Phan Ngọc Kh1 và ông xác định không tranh chấp việc nuôi con mà đồng ý để cháu Ngọc Kh1 tiếp tục sống cùng với bà H sau khi ly hôn.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có Đồng thời, ông Phan Hữu T có đơn yêu cầu được vắng mặt không tham gia phiên tòa

* Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H vắng mặt suốt trong quá trình giải quyết và không có ý kiến trình bày Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phan Hữu T có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt; Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H vắng mặt không tham dự phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa ông Phan Hữu T với bà Nguyễn Thị Thu H; Về con chung bà H tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Phan Ngọc Kh1. Ông T không phải cấp dưỡng do bà H không có yêu cầu. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của vị Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bà Nguyễn Thị Thu H mặc dù được tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng bà H vẫn không tham dự phiên tòa nên vụ án được tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn ông Phan Hữu T có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của ông T là phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2] Về thẩm quyền: Ông Phan Hữu T khởi kiện xin ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu H đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

[3.1] Theo đơn khởi kiện, ý kiến trình bày tại các buổi làm việc tại tòa án, ông T có ý kiến về quan hệ hôn nhân thì giữa ông bà tự tìm hiểu và đi đến hôn nhân, cả hai có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường MP, thành phố LX, tỉnh AG theo giấy đăng ký kết hôn số 127 ngày 10/11/1999. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng thời gian sau không còn hạnh phúc, giữa hai bên xảy ra nhiều bất đồng. Nguyên nhân mâu thuẫn theo ông T trình bày mâu thuẫn giữa vợ chồng chủ yếu là bất đồng quan điểm sống dẫn đến cự cãi, mâu thuẫn từ tiền bạc thời gian kéo dài từ lâu. Về mặt tình cảm vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, trong gia đình vợ chồng không có sự tôn trọng lẫn nhau, sự tin tưởng không còn. Cả hai không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng được nên từ năm 2017 cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân.

[3.2] Trong quá trình giải quyết vụ án tòa án nhân thành phố Long Xuyên đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bà Nguyễn Thị Thu H nhưng bà H vẫn vắng mặt, cũng như không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của ông T.

[3.3] Hội đồng xét xử nhận thấy, trong cuộc sống hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện ông T cương quyết ly hôn còn bà H không có ý kiến cũng như không đưa ra được giải pháp nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng, hôn nhân giữa hai bên không còn tồn tại trên thực tế từ năm 2017 cho đến nay, giữa vợ chồng không còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau, cũng như không có giải pháp nhằm hàn gắn, duy trì cuộc hôn nhân. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa ông Phan Hữu T và bà Nguyễn Thị Thu H.

[4] Về con chung: ông T trình bày và cung cấp các giấy khai sinh thể hiện trong thời gian chung sống có 02 (hai) con chung tên Phan Minh Kh, sinh ngày 24/8/2000 đã trưởng thành và Phan Ngọc Kh1, sinh ngày 23/6/2008 hiện đang đang sống cùng với bà H. Sau khi ly hôn ông T có ý kiến ông không tranh chấp và đồng ý để con chung là Phan Ngọc Kh1, sinh ngày 23/6/2008 cho bà H nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4.1] Hội đồng xét ông T có ý kiến liên quan đến việc nuôi dưỡng, cấp dưỡng nuôi con nhưng bà H mặc dù nhận được các văn bản của Tòa án nhưng không có ý kiến. Theo biên bản lấy lời khai của ông T thì con ông đang học và ông không muốn ảnh hưởng đến tâm lý của cháu Kh1, về con chung ông T không tranh chấp và đồng ý để cháu Kh1 sống cùng với bà H. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét về lợi ích mọi mặt của cháu Phan Ngọc Kh1, sinh ngày 23/6/2008 nên sau khi ly hôn bà H tiếp tục nuôi dưỡng cháu Phan Ngọc Kh1.

[4.2] Đối với việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, ông T không là người trực tiếp nuôi con bà H không có yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Ông T trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng bà Nguyễn Thị Thu H vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 143; khoản 1 Điều 146; khoản 4 Điều 147; Điều 186; khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 232; Điều 238; khoản 1 Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Hữu T đối với bà Nguyễn Thị Thu H 1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Phan Hữu T với bà Nguyễn Thị Thu H Giấy chứng nhận kết hôn số 127/KH-MP, quyển số 01/99 do Ủy ban nhân dân phường MP, thành phố LX, tỉnh AG cấp ngày 10 tháng 11 năm 1999 cho ông Phan Hữu T, bà Nguyễn Thị Thu H hết hiệu lực kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Có 02 (hai) con chung cháu Phan Minh Kh, sinh ngày 24/8/2000 đã trưởng thành và cháu Phan Ngọc Kh1, sinh ngày 23/6/2008 2.1. Sau khi ly hôn bà Nguyễn Thị Thu H nuôi con chung cháu Phan Ngọc Kh1, sinh ngày 23/6/2008. Ông Phan Hữu T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà H không có yêu cầu.

2.2. Bà H phải tạo điều kiện cho nhau trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng và nuôi con chung không cố định.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm:

4.1. Ông Phan Hữu T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001145 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên ngày 05/4/2022. Ông T đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4.2. Bà Nguyễn Thị Thu H không phải nộp tiền án phí sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng, các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư ngụ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 113/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:113/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về