Bản án về tranh chấp ly hôn số 11/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 11/2024/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 5 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2024/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2024 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2024/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tấn P-1985-Yêu cầu vắng mặt.

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Bà Tô Bích N-1986-Vắng mặt.

Nơi thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Tấn p trình bày: Về quan hệ hôn nhân: Ông P và bà N do tự quen biết nhau, được sự chấp thuận của gia đình nên tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ ngày 13/9/2017. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, ly thân từ tháng 4/2023 đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng từ đó bất đồng quan điểm, thường hay gây gỗ, cự cải nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung, sống không hạnh phúc. Nay nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không thể tiếp tục sống chung nên ông P yêu cầu ly hôn với bà N. Về con chung: Ông P xác định có 04 con chung với bà N tên là Nguyễn Kim Yến N1-sinh ngày 05/11/2008, Nguyễn Kim Tuyết N2-sinh ngày 05/11/2008, Nguyễn Tấn Đ-sinh ngày 13/01/2011 và Nguyễn Kim Trang T-sinh ngày 25/5/2015. Hiện nay, các cháu đang do ông P nuôi dưỡng. Khi ly hôn, ông P yêu cầu nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tòa án có triệu tập hợp lệ bà N nhiều lần đến Tòa để tham gia giải quyết vụ án nhưng bà N không đến để trình bày ý kiến và yêu cầu của mình. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được nên vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần thứ 02 không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến nay là đúng theo quy định pháp luật, đồng thời phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Chấp nhận cho ông P được ly hôn với bà N. Về con chung: Giao các con chung cho ông P nuôi dưỡng cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi, bà N không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ 02 tại phiên tòa không lý do nên căn cứ vào các Điều 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn nên xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp ly hôn. Do bị đơn có nơi cư trú tại huyện V nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh theo quy định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân của ông P và bà N là hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định nên đây l à hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Ông P xác định vợ chồng đã có một thời gian chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ tháng 4/2023 đến nay. Theo ông P trình bày thì nguyên nhân là do vợ chồng từ đó bất đồng quan điểm, thường hay gây gỗ, cự cải nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung, sống không hạnh phúc. Từ khi ly thân cả hai không gặp nhau, không còn quan tâm, lo lắng cho nhau, không có biện pháp hàn gắn tình cảm nên ông P yêu cầu ly hôn với bà N. Bà N đã được Tòa án triệu tập nhiều lần vẫn không đến Tòa để trình bày ý kiến và yêu cầu của mình. Điều này, cho thấy bà N không muốn gặp ông P để hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn giữa ông bà trầm trọng, không thể tiếp tục sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục duy trì hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho nhau. Vì vậy, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận cho ông P được ly hôn với bà N là phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Ông P xác định có 04 con chung với bà N tên là Nguyễn Kim Yến N1-sinh ngày 05/11/2008, Nguyễn Kim Tuyết N2-sinh ngày 05/11/2008, Nguyễn Tấn Đ-sinh ngày 13/01/2011 và Nguyễn Kim Trang T-sinh ngày 25/5/2015. Hiện nay, các cháu đang do ông P nuôi dưỡng. Khi ly hôn, ông P yêu cầu nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc nuôi dạy con là trách nhiệm chung của cha mẹ. Việc giao con cho ai nuôi dưỡng cũng phải xem xét quyền lợi mọi mặt của con. Từ khi ly thân đến nay, các con chung do ông P trực tiếp nuôi dưỡng, môi trường sống và sinh hoạt của các cháu đã ổn định. Ông P có thu nhập ổn định đảm bảo việc nuôi dạy các cháu phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Ý kiến của các cháu cũng yêu cầu được sống chung với cha, không yêu cầu gì ở mẹ. Vì vậy, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao các con chung cho ông P tiếp tục nuôi dưỡng, bà N không cấp dưỡng nuôi con là phù hợp.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.

[7] Xét lời phát biểu của Viện kiểm sát là có cơ sở.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, 28, 35, 39, 147, 227, 228 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, 53, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa 14; quy định về mức thu, miễn,giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tu yên xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Tấn P được ly hôn với bà Tô Bích N.

Về con chung: Công nhận ông P và bà N có 04 con chung tên là Nguyễn Kim Yến N1-sinh ngày 05/11/2008, Nguyễn Kim Tuyết N2-sinh ngày 05/11/2008, Nguyễn Tấn Đ-sinh ngày 13/01/2011 và Nguyễn Kim Trang T-sinh ngày 25/5/2015. Giao các con chung cho ông P tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi, bà N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho bà N không ai được cản trở. Ông P, bà N có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con vì lợi ích của con.

Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Tấn P phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006844 ngày 18/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, công nhận ông P đã nộp xong.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 11/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:03/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về