Bản án về tranh chấp ly hôn số 109/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 109/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 283/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022, về tranh chấp “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 165/2022/QĐXX-ST ngày 06 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Quang N - sinh ngày: 20/02/1997 (có mặt). Địa chỉ: ấp H, xã A, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Chị Phan Thị Mỹ X – sinh ngày: 09/11/1997 (có mặt).

Địa chỉ: ấp A, xã N, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/5/2022, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Lê Quang N trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Phan Thị Mỹ X do quen biết rồi đi đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới vào năm 2019 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã N, huyện L, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 04/12/2019.

Sau ngày cưới vợ chồng anh cùng nhau đi làm ở thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 năm đến tháng 02 năm 2022 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị X quen người đàn ông khác bên ngoài, nhắn tin qua lại xưng hô vợ chồng, dẫn đến vợ chồng thường hay cự cãi, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Anh và chị X đã không còn sống chung với nhau từ tháng 02 năm 2022 cho đến nay.

Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu ly hôn với chị Phan Thị Mỹ X.

- Về con chung: Có một con chung tên Lê Phú T, sinh ngày 21/10/2020. Hiện nay cháu T đang sống chung với chị X, sau khi ly hôn anh đồng ý giao cháu T cho chị X chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh tự nguyện cấp dưỡng cho cháu T mỗi tháng là 1.500.000đ cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Anh Lê Quang N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu phải trả của vợ chồng: Anh Lê Quang N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bảng khai ý kiến ngày 20/6/2022, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay bị đơn chị Phan Thị Mỹ X trình bày:

- Về mối quan hệ hôn nhân: Do quen biết được 8 năm nên chị và anh N kết hôn vào năm 2019 và có tổ chức lễ cưới, sau ngày cưới anh chị sống hạnh phúc đến tháng 5 năm 2022 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh N hiểu lầm chị và gia đình không chấp nhận chị vì cho rằng chị có quan hệ với người đàn ông khác bên ngoài, chị thừa nhận chị có nhắn tin qua lại với người đàn ông khác nhưng chỉ là bạn bè bình thường. Nay với yêu cầu xin ly hôn của anh N thì chị không đồng ý vì chị còn thương anh N, chị muốn đoàn tụ để cùng anh N nuôi dạy con chung.

- Về con chung: Có một con chung tên Lê Phú T, sinh ngày 21/10/2020, hiện nay cháu T đang sống chung với chị. Nếu phải ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng cháu T, anh N tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng là 1.500.000đ/tháng cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi thì chị đồng ý.

- Về tài sản chung: Chị Phan Thị Mỹ X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Phan Thị Mỹ X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài liệu, chứng cứ trong vụ án:

Nguyên đơn đã nộp: Đơn khởi kiện; Trích lục kết hôn; Giấy xác nhận; Giấy chứng minh nhân dân; Giấy khai sinh (bản sao); 07 tờ tin nhắn zalo.

Bị đơn đã nộp: Bảng khai ý kiến; Giấy chứng minh nhân dân.

Tại phiên tòa hôm nay, đương sự khẳng định không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn anh Lê Quang N có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long giải quyết việc ly nhân giữa anh và bị đơn chị Phan Thị Mỹ X, chị X có nơi cư trú tại ấp A, xã N, huyện L, tỉnh Vĩnh Long. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Anh N và chị X do quen biết tự tìm hiểu nhau rồi tiến tới hôn nhân có tổ chức lễ cưới vào năm 2019 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã N, huyện L, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 04/12/2019 nên quan hệ hôn nhân giữa anh N và chị X là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống theo anh N trình bày thì thời gian vợ chồng sống hạnh phúc được 02 năm đến tháng 02 năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn.

Theo lời trình bày của anh N thì nguyên nhân mâu thuẫn là do chị X có người đàn ông khác bên ngoài, nhắn tin qua lại xưng hô vợ chồng, dẫn đến vợ chồng thường hay cự cãi, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Anh N và chị X không còn sống chung với nhau từ tháng 02 năm 2022 cho đến nay. Chị X trình bày chị và anh N xảy ra mâu thuẫn từ tháng 5 năm 2022 đến nay, chị thừa nhận chị có nhắn tin qua lại với người đàn ông khác nhưng chỉ là bạn bè bình thường, chị và anh N chỉ là hiểu lầm. Nay anh N yêu cầu ly hôn với chị X, chị X không đồng ý mà chị X yêu cầu đoàn tụ. Xét yêu cầu của anh N là có cơ sở do theo tài liệu, chứng cứ do anh N cung cấp ngày 05/7/2022 thể hiện chị X có nhắn tin qua lại với người đàn ông khác và người đàn ông đó có xưng hô vợ chồng với chị X, còn chị X trình bày chị và người đàn ông đó chỉ là bạn bè bình thường nhưng chị X không cung cấp được chứng cứ thể hiện chị và người đàn ông mà chị nhắn tin là bạn bè. Đồng thời anh N và chị X cũng thừa nhận là từ khi anh chị xảy ra mâu thuẫn đến nay thì anh chị đã không còn sống chung với nhau, cho thấy tình trạng hôn nhân giữa anh N và chị X đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh N.

Về con chung: Có một người con chung tên Lê Phú T, sinh ngày 21/10/2020. Hiện nay cháu T đang sống chung với chị X. Sau khi ly hôn anh N đồng ý giao cháu T cho chị X chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh N tự nguyện cấp dưỡng cho cháu T mỗi tháng là 1.500.000đ cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi, chị X đồng ý nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thoả thuận của các đương sự.

Về tài sản chung: Anh N và chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Anh N và chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh N phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 9, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Quang N.

Về hôn nhân: Cho anh Lê Quang N được ly hôn với chị Phan Thị Mỹ X.

Về con chung: Anh Lê Quang N và chị Phan Thị Mỹ X có một người con chung tên Lê Phú T, sinh ngày 21/10/2020. Ghi nhận sự thỏa thuận của anh Lê Quang N và chị Phan Thị Mỹ X, giao cháu Lê Phú T cho chị Phan Thị Mỹ X trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Lê Quang N có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Lê Phú T mỗi tháng là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) cho đến khi cháu Lê Phú T đủ 18 tuổi. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về tài sản chung: Anh Lê Quang N và chị Phan Thị Mỹ X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Anh Lê Quang N và chị Phan Thị Mỹ X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Lê Quang N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con. Số tiền trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà anh Lê Quang N đã nộp theo biên lai thu số N00008382, ngày 25/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L. Buộc anh Lê Quang N phải nộp thêm số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 109/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:109/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về