Bản án về tranh chấp ly hôn số 105/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 105/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 386/2022/TLST – HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 47/2022/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Sơn A, sinh ngày 24/12/1981 (Có mặt) Địa chỉ: ấp P, xã D, huyện D, tỉnh B.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bùi Tường A, sinh ngày 05/7/1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp P, xã D, huyện D, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 07/7/2022, bản tự khai ngày 15/8/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Sơn A trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị A và anh Tường A có tìm hiểu nhau vào khoảng năm 2000, sau đó tự nguyện về sống chung với nhau vào năm 2001, đến năm 2002 cưới nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Định vào năm 2003. Thời gian đầu sống chung có hạnh phúc nhưng đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Tường A nhậu nhẹt, cờ bạc, dẫn đến vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, cự cãi, sống không hạnh phúc và đã ly thân từ giữa năm 2016 đến nay, mặc dù sống chung nhà nhưng việc ai người đó làm, không quan tâm đến nhau. Hiện tại chị cũng đã về nhà mẹ ruột ở tại Đồng Tháp. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên nay chị yêu cầu ly hôn với anh Tường A.

- Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên:

1/ Nguyễn Sơn K, sinh ngày 14/10/2003 đã thành niên và có khả năng lao động, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2/ Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 12/9/2014 theo nguyện vọng con muốn sống chung với mẹ, nên chị yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

- Tại phiên Tòa: Chị A vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, không thay đổi gì.

* Đối với anh Nguyễn Bùi Tường A là bị đơn, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng anh đều vắng mặt, mặc dù anh vẫn còn sinh sống tại địa phương, nên không thu thập được lời khai của anh.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh B tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa là không thực hiện theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A đối với anh A. Về con chung: Đề nghị giao cháu Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 12/9/2014 cho chị A nuôi dưỡng và phù hợp với nguyện vọng của cháu Như A. Ghi nhận chị A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết, nên đề nghị không xét đến. Về nợ chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Bùi Tường A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt anh là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị A và anh A cưới nhau vào năm 2002 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Định vào năm 2003 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị A và anh A được công nhận hợp pháp.

Nay chị A yêu cầu ly hôn, anh A vắng mặt nên không có lời khai. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của chị A đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Tường A nhậu nhẹt, cờ bạc, dẫn đến vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, cự cãi, sống không hạnh phúc và đã ly thân từ giữa năm 2016 đến nay, mặc dù sống chung nhà nhưng việc ai người đó làm, không quan tâm đến nhau. Hiện tại chị cũng đã về nhà mẹ ruột ở tại Đồng Tháp.

Hơn nữa, Toà án đã tiến hành mời chị A và anh A để hoà giải, nhằm cho các bên có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh A vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh A đã không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này.

Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa chị A và anh A đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị A là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị A và anh A có 02 con chung tên:

1/ Nguyễn Sơn K, sinh ngày 14/10/2003 đã thành niên và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

2/ Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 12/9/2014 theo nguyện vọng con muốn sống chung với mẹ, nên chị yêu cầu được nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Như A, xét thấy từ trước đến nay cháu Như A do chị trực tiếp nuôi, việc chị nuôi con chung vẫn phát triển bình thường. Mặt khác, tại thời điểm giải quyết ly hôn giữa chị A và anh A thì cháu đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng sống với chị A; chị A cũng có nguyện vọng được nuôi con, nên để nhằm ổn định về tinh thần của con chung anh và chị và phù hợp với nguyện vọng của cháu Như A, cần để cháu Như A cho chị A nuôi dưỡng cũng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị A.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị A nuôi con chung nhưng không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con, nên được Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét đến.

[5]. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, chị A không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6]. Về nợ chung: Chị A khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[7]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ về quan điểm giải quyết vụ án: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Sơn A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Sơn A đối với anh Nguyễn Bùi Tường A.

Cho ly hôn giữa chị Sơn A và anh Nguyễn Bùi Tường A.

Quan hệ hôn nhân giữa chị Sơn A và anh Nguyễn Bùi Tường A chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung:

Chị Sơn A và anh Nguyễn Bùi Tường A có 02 con chung tên:

1/ Nguyễn Sơn K, sinh ngày 14/10/2003.

2/ Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 12/9/2014.

2.1. Đối với cháu Nguyễn Sơn K đã thành niên và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

2.2. Giao con chung Nguyễn Ngọc Như A, sinh ngày 12/9/2014 cho chị Sơn A trực tiếp nuôi dưỡng.

2.3. Ghi nhận sự tự nguyện chị Sơn A nuôi con chung không yêu cầu anh Nguyễn Bùi Tường A cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Bùi Tường A không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị Sơn A trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nguyễn Bùi Tường A trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Chị A khai không có, nên không xét đến.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Chị Sơn A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0009307 ngày 21 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh B. Như vậy, chị Sơn A đã nộp đủ án phí.

Chị Sơn A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Nguyễn Bùi Tường A vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 105/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:105/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về