Bản án về tranh chấp ly hôn số 1019/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1019/2023/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 449/2023/TLST-HNGĐ ngày 10/7/2023 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 543/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/8/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 475/2023/QĐST-HNGĐ ngày 27/9/2023 và Thông báo dời phiên tòa số 07/TB-TA ngày 19/10/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn V, sinh năm: 1977; Địa chỉ: A tổ I, ấp A, xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Ông V có mặt tại phiên tòa)

2. Bị đơn: Bà Trần Hồng H, sinh năm: 1980; Địa chỉ: A tổ I, ấp A, xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà H vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 12/6/2023, bản tự khai ngày 01/8/2023, bản tự khai bổ sung ngày 13/11/2023, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa - Nguyên đơn ông Phạm Văn V trình bày:

Ông và bà Trần Hồng H về chung sống với nhau từ năm 2002, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 132 ngày 23/10/2002. Trong thời gian chung sống, tính tình của ông và bà H không còn hợp nhau, phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, ít còn sự quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng dần dần không còn nữa, dẫn đến cuộc sống gia đình không có hạnh phúc. Từ đầu năm 2023 cho đến nay, ông và bà H sống ly thân. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng khó hàn gắn, vì vậy ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Trần Hồng H.

Về con chung, ông và bà H chung sống có hai con chung gồm: Cháu Phạm Hồng K, sinh ngày 30/10/2003, giới tính nữ, hiện nay cháu K đã trưởng thành, sống tự lập và cháu Phạm Nhất L, sinh ngày 19/4/2012, giới tính nam. Cháu L có nguyện vọng được sống với bà H, vì vậy đề nghị Tòa án giao cháu L cho bà H được tiếp tục nuôi dưỡng. Ông sẽ cấp dưỡng nuôi cháu L đến khi thành niên, số tiền cấp dưỡng mỗi tháng là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), thực hiện cấp dưỡng vào ngày 01 dương lịch hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 01/12/2023.

Về tài sản chung, ông xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung, ông xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, tại phiên tòa ông V cũng trình bày, kể từ khi nộp đơn ly hôn thì tháng nào ông cũng gửi tiền trên 2.000.000 đồng cho bà H để nuôi cháu L, ông cũng có cho cháu K tiền riêng để tiêu xài. Bà H cũng không có ý kiến gì về số tiền mà ông gửi bà H nuôi cháu L. Ông cũng có nói với bà H khi ly hôn ông để bà H nuôi cháu L thì bà H cũng đồng ý. Cháu L thương mẹ nên cũng muốn sống chung với bà H. Do sợ ảnh hưởng đến việc học và tâm lý của cháu L nên ông và bà H đều không đồng ý dẫn cháu L đến Tòa để ghi nhận ý kiến. Mặt khác, cháu L cũng không đồng ý theo ông đến Tòa.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho bà Trần Hồng H gồm: thông báo về việc thụ lý vụ án ngày 10/7/2023; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 28/8/2023; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 28/8/2023; quyết định đưa vụ án ra xét xử số 543 ngày 31/8/2023; quyết định hoãn phiên tòa số 461 ngày 27/9/2023, thông báo dời phiên tòa số 07 ngày 19/10/2023, thông báo về việc ghi nhận ý kiến của con chung ngày 19/10/2023 và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bà Trần Hồng H vẫn không đến Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kim sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Nguyên đơn ông Phạm Văn V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn bà Trần Hồng H. Bà H hiện đang cư trú và sinh sống tại địa chỉ A tổ I, ấp A, xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn bà Trần Hồng H đà được Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án ngày 10/7/2023; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 28/8/2023; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 28/8/2023; quyết định đưa vụ án ra xét xử số 543 ngày 31/8/2023; quyết định hoàn phiên tòa số 461 ngày 27/9/2023, thông báo dời phiên tòa số 07 ngày 19/10/2023, thông báo về việc ghi nhận ý kiến của con chung ngày 19/10/2023 và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự cho bà H nhưng bà H vẫn không đến Tòa án tham gia các buổi làm việc, phiên tòa nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 132 Quyển số 02/02 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện B cấp ngày 23/10/2002 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông S là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9, Điều 11 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

[5] Theo trình bày của ông V thì giữa ông và bà H phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình của ông và bà H không còn hợp nhau, ít còn sự quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng dần dần không còn nữa, dẫn đến cuộc sống gia đình không có hạnh phúc, từ đầu năm 2023 cho đến nay, ông và bà H sống ly thân. Vì vậy, ông V yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà H. Còn bà H vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, không thể hiện ý kiến, yêu cầu về các yêu cầu khởi kiện của ông V.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì bà H vắng mặt, còn ông V vẫn cương quyết ly hôn, không đồng ý cho thêm cơ hội để các bên hàn gắn tình cảm vì các bên từ lâu đã sống ly thân. Điều này phù hợp với kết quả trả lời xác minh của Ủy ban nhân dân xã L thì ông V và bà H hiện đang sống ly thân, ông V đi làm xa lâu lâu về thăm nhà, còn bà H ở tại nhà. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa ông V và bà H đã không đạt được, đời sống chung giữa hai vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài. Do đó, ông V yêu cầu ly hôn đối với bà H là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về con chung: Ông V xác nhận giữa ông và bà H chung sống có hai con chung tên Phạm Hồng K, sinh ngày 30/10/2003 và Phạm Nhất L, sinh ngày 19/4/2012. Theo ông V trình bày thì hiện cháu K đã thành niên, sống tự lập, còn cháu L đang do bà H trực tiếp nuôi dưỡng trong thời gian các bên sống ly thân. Vì vậy, ông đề nghị Tòa án giao cháu L cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng, còn ông sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), thực hiện cấp dưỡng vào ngày 01 dương lịch hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 01/12/2023 cho đến cháu L thành niên.

Còn bà H vắng mặt không thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu về con chung của ông V, do đó Hội đồng xét xử căn cứ ý kiến của ông V và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xem xét.

[7.1] Về quyền nuôi con khi ly hôn:

Tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:

“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con” 3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trưng hp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con” Ngày 01/8/2023 khi Tòa án ban hành giấy triệu tập đương sự mời các đương sự đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào lúc 14 giờ ngày 28/8/2023 cũng như tại Thông báo về việc ghi nhận ý kiến con chung ban hành ngày 19/10/2023 mời các bên đến Tòa lúc 10 giờ 30 phút ngày 13/11/2023, Tòa án đều yêu cầu các bên đương sự dẫn cháu Phạm Nhất L đến Tòa án để Tòa ghi nhận ý kiến của cháu theo quy định khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tuy nhiên các bên đương sự đều không thực hiện việc dẫn cháu L đến Tòa án.

Theo trình bày của ông V lý do ông không dẫn cháu L đến Tòa để ghi nhận ý kiến vì không muốn ảnh hưởng đến tâm lý, việc học của cháu, hơn nữa giữa ông và bà H không có tranh chấp về việc nuôi con, kể từ khi ly thân cho đến nay bà H là người trực tiếp nuôi cháu L. Điều này phù hợp với kết quả trả lời xác minh của Ủy ban nhân dân xã L là “cháu Phạm Nhất L đang sống với bà H tại nhà, tình hình nuôi dưỡng cháu bình thường” Hội đồng xét xử nhận định, xét đến khả năng của các đương sự về việc đảm bảo cuộc sống, tinh thần ổn định, sự phát triển tốt nhất cho cháu L về mọi mặt, mặc dù việc không ghi nhận được ý kiến của cháu Phạm Nhất L theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, tuy nhiên theo kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã L thì bà H hiện nuôi cháu L bình thường, ông V không có tranh chấp về quyền nuôi con với bà H trong vụ án này nên căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Phạm Nhất L cho bà Trần Hồng H tiếp tục nuôi dưỡng là thỏa đáng, trường hợp sau này các bên có tranh chấp về quyền nuôi con sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[7.2] Về cấp dưỡng nuôi con: Theo ông V trình bày, từ khi sống ly thân đến nay, hàng tháng ông đều gửi cho bà H tiền nuôi dưỡng cháu L mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), bà H không có ý kiến gì với ông về mức cấp dưỡng này. Do bà H vắng mặt không thể hiện về mức cấp dưỡng mà ông V đưa ra khi ly hôn, vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) mà ông V đưa ra đối với cháu L, thực hiện cấp dưỡng vào ngày 01 dương lịch hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 01/12/2023 cho đến khi cháu L thành niên hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[8] Về tài sản chung: Ông V xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn bà H vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của bà về tài sản chung giữa bà và ông V. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung theo yêu cầu của ông V, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[9] Về nợ chung: Ông V xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn bà H vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của bà về nợ chung giữa bà và ông V. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề nợ chung theo yêu cầu của ông V, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn ông Phạm Văn V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

[11] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 179, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn V đối với bị đơn bà Trần Hồng H về việc tranh chấp ly hôn.

1.1. Về hôn nhân: Ông Phạm Văn V được ly hôn với bà Trần Hồng H. Quan hệ hôn nhân giữa ông Phạm Văn V và bà Trần Hồng H chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 132 Quyển số 02/02 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 23/10/2002 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Về con chung: Ông Phạm Văn V xác nhận có hai con chung tên Phạm Hồng K, sinh ngày 30/10/2003, đã thành niên và Phạm Nhất L, sinh ngày 19/4/2012. Hiện cháu Phạm Nhất L đang sống cùng bà Trần Hồng H.

Giao con chung tên Phạm Nhất L, sinh ngày 19/4/2012 cho bà Trần Hồng H tiếp tục nuôi dưỡng. Ông Phạm Văn V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu Phạm Nhất L mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), thực hiện vào ngày 01 dương lịch hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 01/12/2023 cho đến khi cháu Phạm Nhất L thành niên hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Các đương sự thực hiện việc giao nhận tiền cấp dưỡng tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp ông Phạm Văn V không thực hiện việc cấp dưỡng theo quyết định thì bà Trần Hồng H có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc ông Phạm Văn V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Kể từ khi bà Trần Hồng H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Phạm Văn V chậm thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con thì ông Phạm Văn V còn phải trả lãi theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Ông Phạm Văn V có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1.3. Về tài sản chung: Ông Phạm Văn V xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

1.4. Về nợ chung: Ông Phạm Văn V xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí: Nguyên đơn ông Phạm Văn V phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà ông V đã nộp theo biên lai thu số AA/2023/0019849 ngày 22/6/2023 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông V còn phải nộp bổ sung số tiền chênh lệch là 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Văn V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn bà Trần Hồng H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1019/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:1019/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về