TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 91/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh B Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 240/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị M, sinh năm 1990; thường trú: Thôn Phú B, xã P, huyện H, tỉnh H; tạm trú: Số 30B/11 khu phố B , phường A, thành phố D, tỉnh B Dương.
- Bị đơn: Anh B, sinh năm 1986; thường trú: Thôn Phú B, xã P, huyện H, tỉnh H; tạm trú: Số 30B/11 khu phố B , phường A, thành phố D, tỉnh B Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 23 tháng 4 năm 2021 và các lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị M trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh B tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2012. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, tỉnh H và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 04, quyển số 01/2012 ngày 02/02/2012. Chị M xác định quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được. Nguyên nhân là do anh B đánh bạc gây số nợ lớn với nhiều người làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung, không có sự tin tưởng và chia sẻ lẫn nhau. Chị M đã cố gắng hàn gắn tình cảm và tha thứ nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh B.
- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Phan Đình Gia Bảo, sinh ngày 12/11/2012. Chị M làm công nhân, thu nhập ổn định mỗi tháng khoảng 13.000.000 đồng. Sau khi ly hôn chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi con và yêu cầu anh B thực hiện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.
- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh B trình bày:
- Về hôn nhân: Anh B thống nhất thời gian chung sống, thời gian kết hôn theo lời trình bày của nguyên đơn. Anh B xác định vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do anh B đánh bạc gây ra khoản nợ lớn ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Cuộc sống vợ chồng rơi vào bế tắc, trầm lặng, không còn nói chuyện với nhau. Anh B xác định bản thân đã làm sai, được vợ tha thứ nhiều lần nhưng không thay đổi. Tuy nhiên, anh B còn thương yêu vợ nên mong muốn chị M cho thêm cơ hội để vợ chồng về đoàn tụ, cùng nhau gây dựng lại kinh tế gia đình, nuôi con nên không đồng ý ly hôn.
- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Phan Đình Gia Bảo, sinh ngày 12/11/2012. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh B đồng ý giao con cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh B đồng ý thực hiện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.
- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh B Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Căn cứ các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[1.2] Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021, Tòa án ấn định thời gian mở phiên tòa vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 07 tháng 7 năm 2021. Tuy nhiên, từ ngày 05 tháng 7 năm 2021 đến ngày 11 tháng 10 năm 2021 trên địa bàn thành phố Dĩ An thực hiện Chỉ thị số 10/CT- UBND ngày 22/6/2021 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, áp dụng các biện pháp cách ly xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31-3-2020 của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 trên phạm vi toàn tỉnh. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An không mở phiên tòa vào ngày 07/7/2021. Đến ngày 12/10/2021, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An đã ban hành thông báo mở lại phiên tòa và tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
[2.1] Chị M và anh B tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, tỉnh H và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 04, quyển số 01/2012 ngày 02/02/2012 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
[2.2] Chị M xác định quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh B đánh bạc gây nợ làm ảnh hưởng lớn đến kinh tế gia đình. Từ đó vợ chồng luôn bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung, không có sự tin tưởng và chia sẻ lẫn nhau. Chị M đã nhiều lần tha thứ nhưng anh B không thay đổi. Nhận thấy, mâu thuẫn vợ chồng quá trầm trọng không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh B. Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, B đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị M và anh B xảy ra là do anh B đánh bạc gây nợ làm ảnh hưởng lớn đến kinh tế gia đình. Quá trình giải quyết vụ án anh B cũng thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn là do anh chơi đánh bạc, được chị M tha thứ nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục chơi làm cho kinh tế gia đình suy sụp. Như vậy, anh B xác định vẫn còn tình cảm với vợ, mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng anh không có phương án nào để cải thiện và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị M và anh B đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị M yêu cầu được ly hôn với anh B là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[3] Về con chung:
[3.1] Chị M và anh B xác định quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Phan Đình Gia Bảo, sinh ngày 12/11/2012. Sau khi ly hôn, chị M yêu cầu được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con. Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Chị M làm công nhân thu nhập khoảng 13.000.000 đồng/tháng, thời gian làm việc cố định. Quá trình giải quyết vụ án cháu Bảo có nguyện vọng được ở với mẹ. Đối với bị đơn, trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh B đồng ý giao cháu Bảo cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Như vậy, căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu Phan Đình Gia Bảo cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
[3.2] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Chị M yêu cầu anh B thực hiện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là để đảm bảo cho con có cuộc sống tốt hơn. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh B đồng ý thực hiện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng. Do đó, chị M yêu cầu anh B thực hiện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị M và anh B không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh B Dương.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M và anh B phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và các Điều 227, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M đối với anh B về việc ly hôn, nuôi con.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị M được ly hôn với anh B. (Giấy chứng nhận kết hôn số 04, quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, tỉnh H cấp ngày 02/02/2012).
- Về con chung: Anh B giao một con chung tên Phan Đình Gia Bảo, sinh ngày 12/11/2012 cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh B thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên Phan Đình Gia Bảo số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng/tháng. Thời hạn cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Kể từ ngày người được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Sau khi ly hôn, chị M và anh B đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh B lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị M nuôi con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.
- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị M và anh B không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Chị M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0049649, ngày 28/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh B Dương.
- Anh B phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.
3. Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 91/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 91/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về