Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 74/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 74/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình đã thụ lý số: 281/2021/TLST-HNGĐ ngày 10/11/2021 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/12/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Võ Khả V, sinh năm 2000 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: ấp B, xã TB, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: Anh Phan Minh P, sinh năm 1994 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp P, xã TH, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/6/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Võ Khả V trình bày: Chị V và anh P tự nguyện tìm hiểu và kết hôn vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang vào ngày 09/9/2019. Sau khi cưới, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh P đến cuối năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh P không có trách nhiệm, không quan tâm, chăm sóc vợ con. Chị và anh P đã ly thân từ tháng 12/2020 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị V yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

- Về con chung: Có 01 con chung là cháu Phan Thế H sinh ngày 07/12/2019. Sau khi ly hôn chị V yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 850.000 đồng cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi lao động được.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.

- Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Phan Minh P: Trong suốt quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh P biết để tham gia theo quy định nhưng anh P vẫn không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng không cung cấp chứng cứ hoặc có ý kiến bằng văn bản.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

về nội dung: xét thấy mâu thuẫn giữa chị V và anh P ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị V về việc xin ly hôn với anh P, giao con chung cho chị V tiếp tục nuôi dưỡng và yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 850.000 đồng cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi lao động được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án; Sự có mặt, vắng mặt đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của chị võ Khả V thì vụ án thuộc quan hệ pháp luật tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự;

[2] Về pháp luật nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Võ Khả V về việc được ly hôn anh Phan Minh P, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào lời trình bày, các chứng cứ do đương sự cung cấp thì giữa chị V và anh P kết hôn năm 2019, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 40 ngày 09/9/2019. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Năm 2020, chị V và anh P phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm và đã sống ly thân từ tháng 12/2020 cho đến thời điểm hiện tại, cuộc sống vợ chồng tự ai nấy lo, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh P nhưng anh P không có ý kiến gì đối với yêu cầu được ly hôn của chị V. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì xem như anh P không có phản đối gì đối với yêu cầu được quyền ly hôn của chị V.

Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa chị V và anh P không còn hạnh phúc, cuộc sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được cho nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Võ Khả V.

[2.2]. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, Hội đồng xét xử xét thấy:

Chị V và anh P có 01 con chung là cháu Phan Thế H1 sinh ngày 07/12/2019. Hiện nay cháu H1 đang sống cùng chị V, sức khỏe vẫn tốt, phát triển bình thường. Đồng thời trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh P nhưng anh P không có ý kiến gì về việc con chung.

Do đó, để đảm bảo về vật chất, tinh thần và sự phát triển bình thường của con chung, việc giao con chung là cháu Phan Thế H1 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp.

[2.3] Về yêu cầu cấp dưỡng: Theo biên bản hòa giải ngày 09/12/2021, chị V yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi cháu H1 mỗi tháng 850.000 đồng/tháng cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi.

Trên cơ sở quy định của pháp luật Hội đồng xét xử xét thấy trách nhiệm nuôi con là của chung hai vợ chồng do vậy cần buộc anh P có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình "Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đã thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết".

Chị V và anh P không tự thỏa thuận được mức cấp dưỡng nuôi con. xét theo thu nhập thực tế của anh P, nhu cầu thiết yếu của cháu H1, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu H1 mỗi tháng 850.000 đồng là phù hợp.

Thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ ngày án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi, lao động được.

[2.4] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5] Về nợ chung: Không có.

[3] Về án phí sơ thẩm:

Chị V phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Anh P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 28, 35, 39, 92, 147, 227, 228, 264, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Khả V về việc xin ly hôn với anh Phan Minh P.

Về quan hệ hôn nhân: Chị võ Khả V được quyền ly hôn anh Phan Minh P.

Về con chung: Giao cháu Phan Thế H1 sinh ngày 07/12/2019 cho chị võ Khả V nuôi dưỡng cho đến khi cháu Phan Thế H1 đủ 18 tuổi, lao động được.

Không ai được cản trở cha mẹ thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Phan Minh P cấp dưỡng nuôi cháu Phan Thế H1 mỗi tháng 850.000 đồng/tháng, thời gian thực hiện bắt đầu khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Phan Thế H1 đủ 18 tuổi, lao động được.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ theo nội dung quyết định này thì hàng tháng phải trả tiền lãi theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Vì lợi ích của con chung khi cần thiết có thể thay đối người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

2. Về án phí: Chị võ Khả V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị V đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005074 ngày 05/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, nên xem như nộp xong án phí.

Anh Phan Minh P phải chịu 300.000 đồng án phí về việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Chị Võ Khả V và anh Phan Minh P được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 74/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:74/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về