Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 74/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 74/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1067/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021, về việc tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 126/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 03 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị N, sinh năm 1982 – Vắng mặt.

Địa chỉ: 180, đường N, tổ 2, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ..

Bị đơn: Ông Trần Thanh H, sinh năm 1979 – Vắng mặt.

Địa chỉ: 25/17, khu phố 3, phường H, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng và hoà giải nguyên đơn bà Phan Thị N trình bày:

Vợ chồng bà kết hôn vào năm 2005, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố B, tỉnh Đ, hôn nhân tự nguyện. Vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, tình cảm vợ chồng không còn. Bà nhận thấy những mâu thuẫn giữa hai vợ chồng không thể giải quyết và cứu vãn được nên bà làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Thanh H.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Anh H1, sinh ngày 23/7/2006, và Trần Ngọc Mai C, sinh ngày 29/9/2009. Ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

* Phần trình bày của bị đơn ông Trần Thanh H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không có lời khai:

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Phan Thị N; Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Anh H1, sinh ngày 23/7/2006, và Trần Ngọc Mai C, sinh ngày 29/9/2009. Cháu Anh H1 có nguyện vọng được ở với ba và cháu C có nguyện vọng được ở với mẹ. Do vậy, tránh xáo trộn cuộc sống của trẻ đề nghị Toà án giao cháu H1 cho ông H trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng, giao cháu Mai C cho bà N trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Tạm thời, bà N, ông H không cấp dưỡng nuôi con chung do các bên không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Các bên chưa yêu cầu nên đề nghị tách phần tài sản chung và nợ chung để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà N có đơn xin vắng mặt khi xét xử; bị đơn ông Trần Thanh H mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến tòa để tham gia phiên tòa xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà N và ông H.

[2] Về thẩm quyền: Bà N khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với ông H, có địa chỉ cư trú tại 25/17, khu phố 3, phường H, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[3] Về quan hệ pháp luật và pháp luật áp dụng: Bà N và ông H có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 2005, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ quy định tại Điều 9, 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, nên xác định quan hệ hôn nhân giữa bà N và ông H là hôn nhân hợp pháp.

Bà N làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông H và giải quyết về con chung, đây là quan hệ tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con chung” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Qua đơn xin ly hôn của bà N, tại bản tự khai và lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giải cho thấy mâu thuẫn giữa N và ông H là có thật thể hiện ở việc cả hai đã không còn sống chung với nhau và ông Hải cũng không có thiện chí hòa giải hàn gắn đoàn tụ với bà N điều này thể hiện qua việc ông T đã không đến tòa trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Nhận thấy mục đích hôn nhân giữa bà N và ông H từ lâu đã không còn đạt được nên nếu có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hòa giải hàn gắn cũng không có kết quả. Vì vậy căn cứ Điều 56, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận đơn xin ly hôn của bà N, giải quyết cho bà N được ly hôn ông H.

[5] Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Trần Anh H1, sinh ngày 23/7/2006, Trần Ngọc Mai C, sinh ngày 29/9/2009. Xét thấy, cháu Anh H1 có nguyện vọng được ở với ba và cháu Mai C có nguyện vọng được ở với mẹ và cũng nhằm tránh xáo trộn cuộc sống của các cháu, Hội đồng xét xử giao cháu Anh H cho ông H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; giao cháu Mai C cho bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Do các bên không yêu cầu nên tạm thời bà N và ông H chưa cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà N trình bày không có. Tuy nhiên, do chưa lấy được lời khai của ông H nên tách phần tài sản chung và nợ chung để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này các bên có yêu cầu.

[7] Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị N được ly hôn với ông Trần Thanh H.

2. Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Anh H1, sinh ngày 23/7/2006, Trần Ngọc Mai C, sinh ngày 29/9/2009. Giao cháu Anh H1 cho ông H trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng; giao cháu Mai C cho bà N trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Tạm thời bà N và ông H chưa cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà N và ông H không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo thủ tục pháp luật quy định.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Nguyên đơn bà N phải chịu số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001165 ngày 04/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

5. Bà N và ông H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 74/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:74/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về