Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 73/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 73/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 08 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 148/2022/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 05 năm 2022 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXX-ST ngày 13 tháng 07 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 47/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 08 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều O, sinh năm 1995 Địa chỉ: T1/T2 Trường G, phường T, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1995 Địa chỉ: Ấp E, xã R, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (Chị O có đơn xin vắng mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 10 tháng 05 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kiều O trình bày: Chị và anh Nguyễn Minh T xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2018, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình chung sống chị và anh T có 01(một) con chung tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh T1, sinh ngày 15/02/2019. Hiện cháu T1 đang sống cùng với chị O.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị và anh T là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xung đột, cự cải nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Trong thời gian sống ly thân, chị O và anh T đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thể hàn gắn được do không còn tình cảm với nhau và hiện tại, chị O không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với anh T.

Nay, chị Nguyễn Thị Kiều O yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị O được ly hôn với anh Nguyễn Minh T; Về con chung: Yêu cầu nuôi con chung là cháu Nguyễn Ngọc Quỳnh T1, sinh ngày 15/02/2019, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, Chị O không còn có yêu cầu gì khác.

Đối với anh Nguyễn Minh T không có lời trình bày tại Toà án, đồng thời, anh T cũng không cung cấp cho Toà án tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kiều O theo quy định của pháp luật. Tòa án cũng đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của thủ tục tố tụng dân sự cho anh T, nhưng anh T không đến Tòa án. Vì vậy, theo quy định của pháp luật nếu bị đơn không cung cấp, tài liệu, chứng cứ cũng như ý kiến của mình thì Toà án căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

* Về tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung đề xuất: Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều O.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Ngọc Quỳnh T1, sinh ngày 15/02/2019 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị O không yêu cầu. Anh T được quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra xem xét.

4. Án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều O phải nộp án phí sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kiều O khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp vể nuôi con với anh Nguyễn Minh T, nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Nguyễn Minh T có địa chỉ tại ấp E, xã R, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà, chị Nguyễn Thị Kiều O có đơn xin vắng mặt, anh Nguyễn Minh T vắng mặt. Toà án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu đã tiến hành tống đạt hợp lệ các quyết định tố tụng dân sự cho anh T để tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án theo yêu cầu ly hôn, tranh chấp vể nuôi con giữa chị O và anh T theo quy định, nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị O và anh T.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về hôn nhân: Chị O và anh T xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2018, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh và đã được Uỷ ban nhân dân phường T, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 19/10/2018. Vì thế, hôn nhân giữa chị O và anh T là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Chị O xác định: Về nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị O và anh T là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xung đột, cự cải nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Từ khi sống ly thân với nhau, chị O và anh T đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thể hàn gắn được, nên Chị O yêu cầu được ly hôn với anh T.

Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân muốn tồn tại bền vững thì phải dựa trên cơ sở tự nguyện; vợ chồng phải biết thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống chị O và anh T không biết tôn trọng nhau để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc mà thường xuyên cự cãi nhau, dẫn đến chị O và anh T đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Từ khi sống ly thân, chị O và anh T cũng đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng, nhưng không thể hàn gắn được. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị O vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh T, không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân. Điều này cho thấy hôn nhân giữa chị O và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kiều O đối với anh Nguyễn Minh T.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống giữa chị O và anh T có 01 (một) con chung tên: Nguyễn Ngọc Quỳnh T1, sinh ngày 15/02/2019. Hiện cháu T1 đang sống cùng với chị O. Chị O có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu T1. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh T vắng mặt, không có ý kiến.

Hội đồng xét xử xét thấy, tại thời điểm giải quyết, cháu T1 trên 36 tháng tuổi nhưng chưa đủ 07 tuổi, hiện đang sống ổn định cùng với chị O, đồng thời, chị O cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu T1. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của cháu T1, đồng thời, đảm bảo sự phát triển bình thường và không làm xáo trộn môi trường sống của cháu ảnh hưởng đến sự phát triển về tâm sinh lý của cháu T1, nên cần tiếp tục giao cháu T1 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Anh T có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[2.3] Về cấp dưỡng: Do chị O không yêu cầu anh T phải có ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị O xác định không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, chị O phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

[4] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của Kiểm sát viên - đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu là có căn cứ, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1/- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều O đối với anh Nguyễn Minh T, xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kiều O và anh Nguyễn Minh T.

2/- Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Ngọc Quỳnh T1, sinh ngày 15/02/2019 cho chị Nguyễn Thị Kiều O trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Nguyễn Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Kiều O không yêu cầu.

Anh Nguyễn Minh T có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/- Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Kiều O phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị O đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003104 ngày 10 tháng 05 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Bình được chuyển thu.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 73/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:73/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về