Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 72/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 72/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 08 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 137/2022/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 04 năm 2022 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2022/QĐXX-ST ngày 13 tháng 07 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 08 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị L, sinh năm 1980 Địa chỉ: Ấp L, xã G, huyện H, tỉnh Bạc Liêu

2. Bị đơn: Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1979 Địa chỉ: Ấp L, xã G, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (Chị L có đơn xin vắng mặt, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 04 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Huỳnh Thị L trình bày: Chị và anh Trần Văn Đ xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2001, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã G, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

Quá trình chung sống chị và anh Đ có 02 (hai) con chung tên là Trần Huỳnh Lan V, sinh ngày 07/12/2002; Trần Huỳnh Minh K, sinh ngày 26/06/2010. Hiện cháu V đã thành niên và đã có cuộc sống tự lập, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; còn cháu K đang sống cùng với chị L.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị và anh Đ là do anh Đ không chăm lo cuộc sống gia đình, thường xuyên xảy ra xung đột, cự cãi nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2022 đến nay. Trong thời gian sống ly thân, chị L và anh Đ đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng, nhưng không thể hàn gắn được do không còn tình cảm với nhau và hiện tại, chị L không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với anh Đ.

Nay, chị Huỳnh Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Trần Văn Đ; Về con chung: Theo nguyện vọng của con, con theo ai thì người đó nuôi. Trường hợp con theo chị L thì chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị L không còn có yêu cầu gì khác.

Tại biên bản lấy lời khai đề ngày 02 tháng 06 năm 2022 và trong quá trình xét xử, bị đơn là anh Trần Văn Đ trình bày: Anh Đ thống nhất theo trình bày của chị Huỳnh Thị L về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung là đúng. Nay anh không đồng ý ly hôn với chị Huỳnh Thị L vì anh vẫn còn thương chị L, nên những vấn đề khác anh cũng không đồng ý. Trường hợp Tòa án xử cho chị L ly hôn với anh thì ý kiến của anh về con chung: Theo nguyện vọng của con, con theo ai thì người đó nuôi. Trường hợp con theo anh Đ thì anh không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, anh Đ không còn ý kiến trình bày gì thêm.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

* Về tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung đề xuất: Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Thị L.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Huỳnh Minh K, sinh ngày 26/06/2010 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu. Anh Đ được quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra xem xét.

4. Án phí: Chị Huỳnh Thị L phải nộp án phí sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là chị Huỳnh Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Trần Văn Đ, nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Trần Văn Đ có địa chỉ tại ấp L, xã G, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà, chị Huỳnh Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Trần Văn Đ vắng mặt. Toà án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu đã tiến hành tống đạt hợp lệ các quyết định tố tụng dân sự cho anh Đ để tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án theo yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa chị L và anh Đ theo quy định, nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị L và anh Đ.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về hôn nhân: Chị L và anh Đ xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2001, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã G, huyện H, tỉnh Bạc Liêu và đã được Ủy ban nhân dân xã G cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 13/032002. Vì thế, hôn nhân giữa chị L và anh Đ là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị L xác định: Về nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị và anh Đ là do anh Đ không chăm lo cuộc sống gia đình, thường xuyên xảy ra xung đột, cự cãi nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2022 đến nay. Từ khi sống ly thân với nhau, chị L và anh Đ đã dùng nhiều biện pháp để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thể hàn gắn được, nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Đ.

Còn anh Đ xác định: Về nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị L và anh Đ là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng có xung đột, cự cải nhau. Mâu thuẫn bắt nguồn từ tháng 02 năm 2022 đến nay. Từ khi phát sinh mâu thuẫn đến nay thì anh Đ và chị L có ngồi lại với nhau để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng, nhưng chị L không đồng ý và cương quyết yêu cầu xin ly hôn với anh Đ. Nay trước yêu cầu của chị L thì anh Đ không đồng ý ly hôn với chị L vì anh xác định anh vẫn còn thương chị L.

Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân muốn tồn tại bền vững thì phải dựa trên cơ sở tự nguyện; vợ chồng phải biết thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống chị L và anh Đ không biết tôn trọng nhau để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc mà vợ chồng lại xảy ra xung đột, cự cãi nhau, dẫn đến hiện tại chị L và anh Đ đã phát sinh những mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Anh Đ không đồng ý ly hôn với chị L nhưng anh Đ cũng không đưa ra được bất kỳ biện pháp nào để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng nhiều lần tiến hành triệu tập hợp lệ anh Đ đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Trong khi đó, suốt quá trình giải quyết vụ án, chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh Đ, không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân. Điều này cho thấy hôn nhân giữa chị L và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn giữa chị Huỳnh Thị L đối với anh Trần Văn Đ.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống giữa chị L và anh Đ có 02 (hai) con chung tên: Trần Huỳnh Lan V, sinh ngày 07/12/2002; Trần Huỳnh Minh K, sinh ngày 26/06/2010. Hiện cháu V đã thành niên và đã có cuộc sống tự lập, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; còn cháu K đang sống cùng với chị L. Chị L và anh Đ đều có yêu cầu là theo nguyện vọng của con, con theo ai thì người đó nuôi.

Hội đồng xét xử xét thấy, theo khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“ 2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Xét thấy, tại thời điểm giải quyết, cháu K đã đủ 07 tuổi trở lên, nên cần phải xem xét nguyện vọng của cháu K để giao cháu cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. Tại bản tự khai của cháu K (BL 31 , cháu có nguyện vọng được sống cùng với chị L. Mặt khác, cháu K hiện đang sống ổn định cùng với chị L. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của cháu K, đồng thời, đảm bảo sự phát triển bình thường và không làm xáo trộn môi trường sống của cháu ảnh hưởng đến sự phát triển về tâm sinh lý của cháu K, nên cần tiếp tục giao cháu K cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Anh Đ có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[2.3] Về cấp dưỡng: Do chị L không yêu cầu anh Đ phải có ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con, xét thấy, đây là ý chí tự nguyện của chị L, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị L và anh Đ thống nhất xác định không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, chị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

[4] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của Kiểm sát viên - đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1/- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Thị L đối với anh Trần Văn Đ, xử cho ly hôn giữa chị Huỳnh Thị L và anh Trần Văn Đ.

2/- Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Huỳnh Minh K, sinh ngày 26/06/2010 cho chị Huỳnh Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Trần Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Huỳnh Thị L không yêu cầu.

Anh Trần Văn Đ có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/- Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Huỳnh Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị L đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003083 ngày 29 tháng 04 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Bình được chuyển thu.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 72/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:72/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về