Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 30/2022/TLST-HNGĐ ngày 28.02.2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lý Thị Bích H – Sinh năm: 1987; Địa chỉ: Thôn PH, xã Ea Kuăng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt

- Bị đơn: Ông Nguyễn T- Sinh năm: 1988; Địa chỉ: Kxx Mẹ Suốt, phường HKN, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt lần 2.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Vũ Khắc H – Luật sư Văn phòng luật sư Đại Hải Thủy thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Địa chỉ: Số 12, tổ 4 Thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, Tp Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Lý Thị Bích H trình bày:

- Tôi và ông Nguyễn Tkết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã xã Ea Kuăng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng tôi phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng tôi thường xuyên cãi vả nhau, nên từ tháng 5/2020 chúng tôi đã sống ly thân với nhau. Đến nay tôi không còn tình cảm với ông Tân nữa, mâu thuẩn của vợ chồng tôi đã thực sự trầm trọng không thể khắc phục được nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông Nguyễn Tân.

- Về con chung: Tôi và ông Nguyễn Tcó 02 con chung tên Nguyễn Hữu Trí – Sinh ngày 03/3/2012 và Nguyễn Lý Kim Thư – Sinh ngày 26/8/2015. Ly hôn, tôi có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Lý Kim Thư – Sinh ngày 26/8/2015 và giao con chung Nguyễn Hữu Trí – Sinh ngày 03/3/2012 cho ông Nguyễn Ttrực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp ông Tân không hợp tác thì tôi giao cho ông Tân nuôi cả 02 con chung, vì hiện nay các con đang ở với ông Tân. Tôi tự nguyện cấp dưỡng nuôi con, 1.500.000đ/tháng cho 02 con cho đến khi các con trưởng thành 18 tuổi.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn, ông Nguyễn Tkhông hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án: Từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử không có mặt theo giấy triệu tập, thông báo của Toà án, không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia các phiên hoà giải và cũng không tham gia phiên toà nên không có ý kiến lưu hồ sơ vụ án.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Vũ Khắc Huy trình bày:

- Bà Lý Thị Bích H và ông Nguyễn Tkết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã xã Ea Kuăng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk. Trong cuộc sống vợ chồng giưa hai bên không có hạnh phúc, và thực tế bà Hạnh và ông Tân không sống chung với nhau từ tháng 5/2020, Do vậy, đề nghị Tòa án giải quyết cho bà Hạnh được ly hôn với ông Nguyễn Tân.

- Về con chung: Bà Lý Thị Bích H và ông Nguyễn Tcó 02 con chung tên Nguyễn Hữu Trí – Sinh ngày 03/3/2012 và Nguyễn Lý Kim Thư – Sinh ngày 26/8/2015. Tại phiên tòa, bà Hạnh tự nguyện giao cả 02 con chung cho ông Tân trực tiếp nuôi dưỡng, vì hiện nay các con đang ở với ông Tân, đồng thời bà Hạnh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con số tiền 1.500.000đ/tháng cho 02 con, cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi, mong HĐXX chấp nhận.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lý Thị Bích H xác định không có.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng.

+ Về người tham gia tố tụng:

* Đối với nguyên đơn: Chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71, 234 BLTTDS.

* Đối với bị đơn: Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không tham gia tố tụng. Tại phiên tòa ngày hôm nay bị đơn vắng mặt lần thứ hai là chưa thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS. Do vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 227 BLTTDS, xét xử vắng mặt bị đơn.

+ Về nội dung: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1].Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Tranh chấp ly hôn giữa bà Lý Thị Bích H và ông Nguyễn Tthuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.1]. Về người tham gia tố tụng: Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 15/7/2022 và cũng như phiên toà hôm nay, Toà án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà đối với bị đơn là ông Nguyễn Tnhưng ông Tân vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX xử vắng mặt ông Nguyễn Tân.

[2]. Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Bích H đối với ông Nguyễn Tân, thì thấy:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý Thị Bích H và ông Nguyễn Tkết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã xã Ea Kuăng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Theo bà Lý Thị Bích H khai nhận thì quá trình chung sống, vợ chồng ông bà thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, không cùng quan điểm sống, nên ông bà đã sống ly thân từ tháng 5/2020 cho đến nay, phần ai tự lo cuộc sống của mình mà không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, bà Lý Thị Bích H xác định tình cảm không còn, đời sống chung vợ chồng đã thực sự trầm trọng không thể khắc phục được nên mong muốn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn T.

Ông Nguyễn Tkhông hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án nên không có lời khai tại hồ sơ.

Qua xác minh tại địa phương thì thấy: Bà Lý Thị Bích H và ông Nguyễn Thiện nay không sống chung với nhau, tại nhà K73/H69/12 Mẹ Suốt, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, chỉ có ông Nguyễn Tvà 02 người con đang sinh sống cùng chị gái, nên vợ chồng có mẫu thuẫn với nhau hay không thì địa phương không biết. Do vậy, việc bà Lý Thị Bích H cho rằng nguyên nhân dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc là do ông Nguyễn Tkhông còn yêu thương bà nữa, nên vợ chồng đã sống ly thân và không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau từ tháng 5/2020 là có căn cứ. Hơn nữa, tại phiên tòa, mặt dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng ông Nguyễn Tvẫn cố tình vắng mặt không có lý do, điều đó cho thấy ông Nguyễn Tkhông tôn trọng Pháp luật và thiếu thiện chí trong việc hàn gắn cuộc hôn nhân của mình, chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa ông Nguyễn Tvà bà Lý Thị Bích H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Lý Thị Bích H được ly hôn với ông Nguyễn T, như đề nghị của đại diện VKS quận Liên Chiểu, cũng như Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà H đã trình bày tại phiên tòa là phù hợp.

- Về quan hệ con chung: Bà Lý Thị Bích H và ông Nguyễn Tcó 02 con chung tên Nguyễn Hữu Trí – Sinh ngày 03/3/2012 và Nguyễn Lý Kim Thư – Sinh ngày 26/8/2015. Hiện nay, các con đang ở với ông Tân tại đường Mẹ Suốt, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, tại phiên tòa, bà Lý Thị Bích H đồng ý giao cả 02 con chung cho ông Nguyễn Ttrực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, bà Hạnh tự nguyện cấp dưỡng 3.000.000đ/tháng cho 02 con, cho đến khi các con trưởng thành 18 tuổi.

Tại bản tự khai cả 02 con cũng muốn được ở với ông Tân. Do vậy, HĐXX xét thấy không cần thiết phải thay đổi sinh hoạt của các cháu, giao cả 02 con chung cho ông Tân trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc cấp dưỡng nuôi con số tiền 1.500.000đ/tháng cho 02 con cho đến khi các con trưởng thành 18 tuổi.

Sau này, các bên có tranh chấp về việc nuôi con chung và cấp dưỡng thì Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lý Thị Bích H xác định không có, nên HĐXX không xem xét, sau này các bên đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

[3]. Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà Lý Thị Bích H phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Các Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Các Điều 51, 56, 81, 82,83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện v/v " Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" của bà Lý Thị Bích H đối với ông Nguyễn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lý Thị Bích H, sinh năm: 1987 được ly hôn với ông Nguyễn T, sinh năm: 1988.

(Giấy chứng nhận kết hôn số: 48/2012, quyển số 01, ngày 03/5/2012 của UBND xã Ea Kuăng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk, không còn giá trị kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật).

2. Về quan hệ con chung: Giao 02 con chung: Nguyễn Hữu Trí – Sinh ngày 03/3/2012 và Nguyễn Lý Kim T – Sinh ngày 26/8/2015 cho ông Nguyễn Ttrực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của bà Lý Thị Bích H, số tiền 1.500.000đ/tháng cho 02 con, cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi, cấp dưỡng tính từ tháng 8/2022, cấp dưỡng vào ngày cuối tháng.

Quyền và nghĩa vụ đối với con chung các bên đương sự được thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ông Nguyễn Tcó đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Lý Thị Bích H không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng như trên thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà Lý Thị Bích H phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0000267 ngày 28 tháng 02 năm 2022.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07 và 09 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về