Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 40/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 40/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 43/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn Tr, sinh năm 1994.

Địa chỉ: thôn T, xã Hà T, huyện Hà T, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Lê Thị C, sinh năm 1993.

Địa chỉ: thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 14/02/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Lê Văn Tr trình bày: anh và chị Lê Thị C tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 05/5/2014 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Do không thể chung sống được nên anh và chị C đã sống ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh Tr đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Lê Thị C.

Về con chung: Anh Tr khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Lê Hoài A, sinh ngày 03/02/2015, hiện nay cháu Hoài A đang ở với anh Tr, anh Tr đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hoài A, không yêu cầu chị C phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, hiện nay anh đang làm nghề công ty nội thất thu nhập hàng tháng khoảng 18 triệu đồng.

Về tài sản: Anh Lê Văn Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã triệu tập hợp lệ chị Lê Thị C đến Toà án để viết bản khai nhưng chị C không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của chị C.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Tr đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với chị C và giao cháu Hoài A cho anh Tr trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và khoản 1, Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Tr. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Tr về việc không yêu cầu chị C phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Lê Thị C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng chị C không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Chị C cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, anh Tr vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Tr và chị C là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Anh Lê Văn Tr và chị Lê Thị C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo anh Tr, quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi, chửi nhau. Kết quả xác minh ngày 10/8/2022 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống giữa anh Tr và chị C phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay. Một thời gian dài vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung vợ chồng đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho anh Tr được ly hôn chị C là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh Tr khai, vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Lê Hoài A, sinh ngày 03/02/2016, anh Tr cũng xuất trình cho Tòa án bản sao giấy khai sinh của cháu Hoài A, trong giấy khai sinh thể hiện cháu Hoài A là con chung của anh Tr và chị C. Mặt khác, cháu Hoài A được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu Hoài A là con chung của anh Tr và chị C. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu Hoài A do anh Tr trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Hoài A có nguyện vọng được ở với bố. Để tránh xáo trộn về tâm lý cũng như nơi ở của cháu, vì vậy giao cháu Hoài A cho anh Tr trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của anh Tr về việc không yêu cầu chị C phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

[4]. Về tài sản: Anh Lê Văn Tr không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Anh Lê Văn Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Lê Văn Tr và chị Lê Thị C.

2. Về con chung: Công nhận cháu Lê Hoài A, sinh ngày 03/02/2016 là con chung của anh Tr và chị C. Giao cháu Hoài A cho anh Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chị C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị C không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh Tr.

3. Về án phí: Anh Lê Văn Tr phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh Tr đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004286 ngày 07/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh Tr đã nộp đủ tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Lê Văn Tr, chị Lê Thị C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 40/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về