Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 28/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Đoàn Q, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 21/3/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Trần Đoàn Q trình bày: anh và chị Nguyễn Thị Nh tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện T (nay là thị xã N), tỉnh Thanh Hóa ngày 26/4/2005. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi cọ mắng chửi, xúc phạm nhau. Anh và chị N đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2018 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được anh Q đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị N.

Về con chung: anh Q khai, vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Trần Khánh N, sinh ngày 18/5/2009. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu N đang ở với anh Q, anh Q đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Hiện nay anh đang làm nghề xây dựng, thu nhập hàng tháng khoảng 07 đến 08 triệu đồng.

Về tài sản: Anh Trần Đoàn Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai đề ngày 18/4/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn là chị Nguyễn Thị N trình bày: Tôi và anh Trần Đoàn Q tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Ngọc L, huyện T (nay là thị xã N), tỉnh T ngày 26/4/2005. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi cọ mắng chửi, xúc phạm nhau. Chị và anh Q đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2018 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay anh Q đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn chị N cũng đồng ý ly hôn với anh Q.

Về con chung: chị N khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Trần Khánh N, sinh ngày 18/5/2009. Hiện nay cháu N đang ở với anh Q, chị N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Hiện nay chị đang làm công nhân tại công ty giầy da VeNus, thu nhập hàng tháng khoảng 5 triệu đồng.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. anh Q đề nghị được ly hôn với chị N và được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, anh Q vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị N và anh Q là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Anh Trần Đoàn Q và chị Nguyễn Thị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi chửi nhau. Theo kết quả xác minh ngày 24/5/2022 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống anh Q và chị N phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng sống ly thân. Cả anh Q và chị N đều khẳng định vợ chồng không còn tình cảm, trong thời gian sống ly thân vợ chồng cũng không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho anh Q được ly hôn chị N là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh Q và chị N thừa nhận, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Trần Khánh N, sinh ngày 18/5/2009. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu N do anh Q trực tiếp nuôi dưỡng, cháu N cũng có nguyện vọng được ở với bố. Để tránh xáo trộn về tâm lý cũng như nơi ở và việc học tập của cháu, do đó, giao cháu ngân cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều, ghi nhận sự tự nguyện của anh Q về việc không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

[4]. Về tài sản: Anh Q và chị N không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Anh Trần Đoàn Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Đoàn Q và chị Nguyễn Thị N.

2. Về con chung: Công nhận cháu Trần Khánh N, sinh ngày 18/5/2009 là con chung của anh Q và chị N. Giao cháu N cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng, chị N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị N không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh Q.

3. Về án phí: Anh Trần Đoàn Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh Q đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0004268 ngày 21/3/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung, anh Q đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Q, chị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về