Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 150/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2022 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/3/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1990; thường trú: Số 92/8 khu phố B, phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1984; thường trú: Số 92/8 khu phố B, phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/02/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Ngọc T1 có thời gian tìm hiểu rồi tiến tới hôn nhân, việc tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 137/KH/2011, quyển số 01, ngày 09/8/2011, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình chấp nhận.

Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại địa chỉ 92/8 khu phố B, phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi nhau, cuộc sống hôn nhân ngày càng ngột ngạt, không còn hạnh phúc nên anh, chị đã sống ly thân từ giữa năm 2021. Nay, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh T1.

Về con chung: Chị T và anh T1 có hai con chung tên Nguyễn Ngọc Kim Hân, sinh ngày 07/4/2011 và Nguyễn Văn Quốc Thái, sinh ngày 16/3/2013. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Kim Hân và Nguyễn Văn Quốc Thái. Chị T không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi hai con chung.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 21/3/2022 bị đơn anh Nguyễn Ngọc T1 trình bày: Thống nhất yêu cầu khởi kiện của chị T về quan hệ hôn nhân và con chung.

- Tại bản tự khai ngày 16/3/2022, cháu Nguyễn Ngọc Kim Hân trình bày: Cháu là con của ba T1 và mẹ T. Trường hợp ba, mẹ không chung sống với nhau nữa cháu có nguyện vọng muốn sống chung với mẹ.

- Tại bản tự khai ngày 16/3/2022, cháu Nguyễn Văn Quốc T2 trình bày: Cháu là con của ba T1 và mẹ T. Trường hợp ba, mẹ không chung sống với nhau nữa cháu có nguyện vọng muốn sống chung với mẹ.

- Ngày 21/3/2022, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, công việc, nguyên nhân mâu thuẫn, quá trình chung sống giữa chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Ngọc T1 tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường H và được cung cấp như sau: Trước khi nộp đơn ly hôn tại Tòa án chị Nguyễn Thị Ngọc T không có đơn yêu cầu Hội Liên hiệp phụ nữ phường H tiến hành hòa giải. Đồng thời, Hội Liên hiệp phụ nữ phường H cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh, chị. Do đó, về tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh, chị, Hội Liên hiệp phụ nữ phường H cũng không biết nên không cung cấp được thông tin cho Tòa án.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị Ngọc T khởi kiện anh Nguyễn Ngọc T1 yêu cầu được ly hôn và nuôi con nên đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Ngọc T1 có nơi cư trú tại phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn đều có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Ngọc T1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thị xã A (nay là thành phố A), tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 137/KH/2011, quyển số 01, ngày 11/8/2011 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Chị T xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống. Hiện anh, chị đã ly thân không còn chung sống với nhau.

Xét thấy, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Thực tế, chị T và anh T1 không còn chung sống với nhau, vợ chồng không còn sự quan tâm, chăm sóc, tin tưởng. Chị T xác định hai vợ chồng chung sống không hạnh phúc, bất đồng quan điểm, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn. Anh T1 cũng đồng ý ly hôn. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh T1 đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị T yêu cầu được ly hôn với anh T1 là có cơ sở chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh T1 có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Kim Hân, sinh ngày 07/4/2011 và Nguyễn Văn Quốc Thái, sinh ngày 16/3/2013. Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt anh T1 cũng đồng ý giao cháu H1 và cháu T2 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Đồng thời, theo lời khai của cháu Nguyễn Ngọc Kim H1 và Nguyễn Văn Quốc T2 xác định có nguyện vọng được sống với mẹ, điều này phù hợp với yêu cầu của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu H1 và cháu T2 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Nghĩa vụ nuôi con là của cả cha lẫn mẹ, khi ly hôn, người không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, chị T không yêu cầu anh T1 thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và các Điều 238, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Nguyễn Ngọc T1.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc T1 [Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 137/KH/2011, quyển số 01, do Ủy ban nhân dân phường H, thị xã A (nay là thành phố A), tỉnh Bình Dương cấp ngày 11/8/2011].

1.2 Về con chung: Anh Nguyễn Ngọc T1 giao hai con chung Nguyễn Ngọc Kim H1, sinh ngày 07/4/2011 và Nguyễn Văn Quốc T2, sinh ngày 16/3/2013 cho chị Nguyễn Thị Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Ngọc T1 có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền được cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: 1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Ngọc T không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc T1 cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003506 ngày 24/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T1 thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về