Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 28/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 717/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021, về việc tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 312/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 39/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị D, sinh năm 1979 – Vắng mặt. Địa chỉ: 98/16/9, khu phố 1, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1969 – Vắng mặt. Địa chỉ: 98/16/9, khu phố 1, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng và hoà giải nguyên đơn bà Phạm Thị D trình bày:

Vợ chồng bà kết hôn vào năm 1999, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường Q, thành phố B, tỉnh Đ, hôn nhân của vợ chồng bà là hoàn toàn tự nguyện. Vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, tình cảm vợ chồng không còn. Bà nhận thấy những mâu thuẫn giữa hai vợ chồng không thể giải quyết và cứu vãn được nên bà làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng T để trả tự do cho cả hai.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1999, và Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 20/4/2007. Ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng cháu A, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu V đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Nguyễn Hoàng T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt, không đến Tòa án làm việc và không có bản khai nộp Tòa án.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Phạm Thị D; Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1999, và Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 20/4/2007. Cháu A có nguyện vọng được ở với mẹ do vậy đề nghị Toà án giao cháu A cho bà D trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Tạm thời, ông T không cấp dưỡng nuôi con chung do bà D không yêu cầu. Cháu V đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động nên không đặt ra xem xét giải quyết; Về tài sản chung, nợ chung: Các bên chưa yêu cầu nên đề nghị tách phần tài sản chung và nợ chung để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà D có đơn xin vắng mặt khi xét xử; bị đơn ông Nguyễn Hoàng T mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến tòa để tham gia phiên tòa xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà D và ông T.

[2] Về thẩm quyền: Bà D khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với ông T, có địa chỉ cư trú tại 98/16/9, khu phố 1, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[3] Về quan hệ pháp luật và pháp luật áp dụng: Bà D và ông T có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 1999, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường Q, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ quy định tại Điều 5, Điều 9 và Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, nên xác định quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông T là hôn nhân hợp pháp. Bà D làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T và giải quyết về con chung, đây là quan hệ tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con chung” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Qua đơn xin ly hôn của bà D, tại bản tự khai và lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giải cho thấy mâu thuẫn giữa D và ông T là có thật thể hiện ở việc cả hai đã không còn sống chung với nhau và ông T cũng không có thiện chí hòa giải hàn gắn đoàn tụ với bà D điều này thể hiện qua việc ông T đã không đến tòa trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Nhận thấy mục đích hôn nhân giữa bà D và ông T từ lâu đã không còn đạt được nên nếu có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hòa giải hàn gắn cũng không có kết quả. Vì vậy căn cứ Điều 56, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận đơn xin ly hôn của bà D, giải quyết cho bà D được ly hôn ông T.

[5] Về con chung: Ông bà có 02 con chung là Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1999, và Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 20/4/2007. Xét thấy, cháu A có nguyện vọng được ở với mẹ và cũng nhằm tránh xáo trộn cuộc sống của cháu, Hội đồng xét xử giao cháu A cho bà D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà D không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông T chưa cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu V đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà D trình bày để hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết và nợ chung: Không có. Tuy nhiên, do chưa lấy được lời khai của ông T nên tách phần tài sản chung và nợ chung để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này các bên có yêu cầu.

[7] Về án phí: Bà D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị D.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị D được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 20/4/2007 cho bà D trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Tạm thời ông T chưa cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1999 đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ông T không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo thủ tục pháp luật quy định.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Nguyên đơn bà D phải chịu số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000690 ngày 01/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

5. Bà Phạm Thị D và ông Nguyễn Hoàng T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 28/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về