Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 274/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 274/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 14 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 72/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2021 về “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 162/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị M, sinh năm 1997, địa chỉ cư trú: tổ 12, ấp D, xã T, huyện P, tỉnh An Giang (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1994, địa chỉ cư trú: ấp H, xã C, huyện P, tỉnh An Giang (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị M trình bày như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn N do mai mối rồi tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2019, anh chị có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C theo giấy chứng nhận kết hôn số 24, cấp ngày 15/02/2019. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, về sau phát sinh mâu thuẫn, do anh N thường hay uống rượu, say sỉn về kiếm chuyện vợ con, rồi vợ chồng cự cãi với nhau, có lần cha ruột chị khuyên ngăn nhưng anh N không nghe, còn đánh cha ruột chị. Giữa chị và anh N có quá Kều mâu thuẫn, không thể tiếp tục sống chung với nhau nên chị quyết định sống ly thân với anh N từ trước Tết Nguyên Đán năm 2021 đến nay. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc và không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh N.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 21/10/2019, hiện đang sống cùng chị M. Khi ly hôn, chị M yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo anh Nguyễn Văn N trình bày:

Về hôn nhân: Anh thống nhất với chị M về điều kiện đăng ký kết hôn, anh thừa nhận khi còn sống chung, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh nghi ngờ chị M có người đàn ông khác nên anh muốn kiểm tra điện thoại của chị M nhưng chị M không cho, vợ chồng cự cãi, lúc đó cha vợ rầy la nên anh giận quá, không kiềm chế có đánh cha vợ một bạt tay, từ đó chị M đã về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 12/2020 đến nay. Anh có đến xin lỗi cha vợ nhưng bên gia đình vợ không tha lỗi. Nay chị M yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì anh còn thương vợ, thương con, muốn hàn gắn đoàn tụ.

Về con chung: Anh thống nhất vợ chồng có một con chung là Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 21/10/2019, hiện cháu K đang sống với mẹ. Nếu Tòa án cho ly hôn, anh đồng ý để chị M được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

* Toà án đã mở phiên hòa giải nhưng anh N vắng mặt, không tiến hành hòa giải được, chị M cũng có đơn yêu cầu không tiếp tục hòa giải.

* Tại phiên tòa:

- Chị M vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Anh N trình bày: Anh thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng là từ việc anh nghi ngờ vợ ngoại tình, kiểm tra tin nhắn điện thoại của vợ, do anh nóng giận và có đánh cha vợ một bạt tay, hai bên gia đình có xích mích với nhau nên vợ chồng không hàn gắn được, anh có năn nỉ nhưng chị M không chịu về nhà với anh. Anh không đồng ý ly hôn với chị M, nhưng nếu chị M cương quyết ly hôn thì tùy Tòa án giải quyết theo pháp luật. Về con chung, anh đồng ý để chị M nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con chung, anh yêu cầu được thăm con. Về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M, cho chị M được ly hôn với anh N. Về con chung: đề nghị giao cháu Nguyễn Ngọc K cho chị M được trực tiếp nuôi dưỡng, do chị M không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Chị M, anh N không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:

Chị Phạm Thị M khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung đối với bị đơn anh Nguyễn Văn N nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là "tranh chấp ly hôn, nuôi con". Anh N có địa chỉ cư trú tại xã C, huyện P, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Về sự có mặt, vắng mặt của đương sự:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn chị M vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh N có mặt nên căn cứ vào Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị M và anh N tự nguyện quen nhau rồi kết hôn vào năm 2019, anh chị có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C theo quy định của pháp luật nên xét hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ sống chung, yêu thương, quan tâm, chăm sóc, tôn trọng lẫn nhau. Thế nhưng khi còn chung sống, chị M và anh N đã không thấu hiểu, quan tâm, tôn trọng nhau, thường hay cự cãi với nhau, gia đình hai bên lại bất hòa, anh chị cũng đã ly thân một thời gian nhưng vẫn không tự tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên hòa giải, để anh chị có cơ hội hàn gắn, đoàn tụ với nhau nhưng anh N không đến, để tùy pháp luật giải quyết, chị M cũng có đơn yêu cầu không tiếp tục hòa giải, cương quyết xin ly hôn với anh N, cho thấy anh chị không tha thiết duy trì mối quan hệ hôn nhân này.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa anh chị đã thật sự lâm vào trình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M, cho chị M được ly hôn với anh N là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.

[2.2] Về con chung:

Chị M và anh N có một con chung tên Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 21/10/2019. Xét thấy, hiện cháu K dưới 36 tháng tuổi và đang sống ổn định với chị M, chị M có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh N đồng ý. Do đó, để đảm bảo về sự phát triển mọi mặt của con, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu K cho chị M được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 58, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị M không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật:

Căn cứ vào Điều 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, anh N là người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng có quyền đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Chị M và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh N đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị M và anh N không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Do chị M là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị M phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị M - Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị M được ly hôn với anh NguyễnVăn N.

Giấy chứng nhận kết hôn số 24 do Uỷ ban nhân dân xã C, huyện P, tỉnh An Giang cấp ngày 15/02/2019 cho chị Phạm Thị M và anh Nguyễn Văn N không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Chị M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 21/10/2019. Hiện cháu K đang sống với chị M.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét, giải quyết.

Chị M và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh N đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung.

Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Phạm Thị M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà chị M đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số TU/2019/0008696 ngày 26 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P nên chị M không phải nộp thêm.

- Về quyền kháng cáo: Anh N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 274/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:274/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về