Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH – TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 01 tháng 04 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2022/TLST-HNGĐ, ngày 05/01/2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 03 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hồng L, sinh năm 1984 (có mặt) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long Chổ ở: ấp C, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

- Bị đơn : Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1975 (có mặt) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/12/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị Hồng L trình bày:

Vào năm 2008 do quen biết nên chị và anh Nguyễn Văn P có tiến tới hôn nhân, có làm lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 27/04/2010 tại UBND xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống hạnh phúc được 13 năm, đến tháng 6/2021 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Anh P không có ý thức chăm lo vun đắp hạnh phúc gia đình và không phụ giúp chị về kinh tế để nuôi con, anh P thường hay ghe tuông vô cớ, xúc phạm chị vì thế vợ chồng thường nảy sinh mâu thuẫn, không còn tình cảm với nhau. Chị bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống và ly thân với anh P từ tháng 6/2021 cho đến nay. Chị và anh P không còn tình cảm với nhau, không còn tiếng nói chung, thường xuyên cự cải không thể khắc phục được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

Về con chung: Khi ly hôn chị L yêu cầu nuôi cháu Nguyễn Trần Gia Nghi, sinh ngày 24/02/2014, vì hiện tại đang sống với chị, chị L không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Chị giao cháu Nguyễn Hoàng Lộc, sinh ngày 24/02/2009 cho anh P nuôi dưỡng, vì cháu Lộc đang sống chung với anh P, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong biên bản hòa giải ngày 01/03/2022, bị đơn anh Nguyễn Văn P trình bày: Vào năm 2008 do quen biết nên anh và chị L có tiến tới hôn nhân, có làm lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 27/04/2010 tại UBND xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

Sau khi kết hôn thì vợ chồng ra riêng, vợ chồng sống hạnh phúc được 13 năm, đến tháng 6/2021 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng làm ăn vui vẻ, do làm ăn buôn bán nên có lời ra tiếng vào về việc vợ anh có quan hệ tình cảm với người khác nên anh và vợ có cự cãi nhau, bất đồng ý kiến, vợ anh bỏ về nhà cha mẹ ở từ ngày 05/06/2021 cho đến nay. Từ lúc đó tới nay anh và chị L không hàn gắn được chuyện gia đình, anh có khuyên nhủ vợ về đoàn tụ để nuôi dạy con cái, nhưng vợ anh không đồng ý, nay anh còn thương vợ, thương con, muốn về sống chung để lo cho gia đình, nên không đồng ý ly hôn với chị Trần Thị Hồng L.

Về con chung: Nếu Tòa án cho ly hôn thì anh yêu cầu nuôi 02 cháu Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 24/02/2009, Nguyễn Trần Gia N, sinh ngày 24/02/2014, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa, chị Trần Thị Hồng L trình bày: Anh P nhiều lần xúc phạm chị, ghe tuông vô cớ, làm cho chị rất mệt mỏi, anh P còn kêu con lớn là cháu Lộc theo dõi chị khi chị đi mua bán dừa, có lần mâu thuẫn anh P đánh chị nhưng vì nghĩ thương con nên chị không báo chính quyền địa phương. Do chị không còn tình cảm với anh P, mong muốn được ly hôn để có cuộc sống yên ổn nên chị vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn P. Về con chung: Khi ly hôn chị L yêu cầu nuôi cháu Nguyễn Trần Gia N, sinh ngày 24/02/2014, vì hiện tại đang sống với chị, chị L không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Chị giao cháu Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 24/02/2009 cho anh P nuôi dưỡng, vì cháu Lộc đang sống chung với anh P, chị không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn P trình bày: Anh vẫn còn thương vợ, mong muốn vợ chồng đoàn tụ nên không đồng ý ly hôn với chị L. Về con chung: Nếu Tòa án cho ly hôn thì anh yêu cầu nuôi 02 cháu Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 24/02/2009, Nguyễn Trần Gia N, sinh ngày 24/02/2014, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra đương sự không có yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn chị Trần Thị Hồng L khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con”; bị đơn anh Nguyễn Văn P cư trú tại xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Qua quen biết chị L và anh P có tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày 27/04/2010, do đó hôn nhân của chị L và anh P là hợp pháp và được pháp luật công nhận.

Xét yêu cầu của chị Trần Thị Hồng L xin ly hôn với anh Nguyễn Văn P, quá trình giải quyết Tòa án hòa giải nhưng không thành. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Như vậy, trong khoảng thời gian chị L và anh P chung sống với nhau có phát sinh mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng không còn chung sống với nhau từ tháng 06 năm 2021 cho đến nay, từ đó chị L đã về nhà cha mẹ ruột chị sinh sống. Trong khoảng thời gian không sống chung với nhau thì vợ chồng chưa giải quyết dứt điểm những mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ, tại phiên tòa chị L nhất quyết ly hôn với anh P, anh P không đồng ý ly hôn. Nhưng chưa thuyết phục được chị L bằng cách nào để chị L trở về sống chung với anh P. Hiện tại vợ chồng đã ly thân, mỗi người đều có cuộc sống riêng, dẫn đến quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng bị vi phạm nghiêm trọng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung. Việc ly thân đó dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L được ly hôn với anh P là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[2]. Về con chung của vợ chồng: Chị L và anh P có 02 con chung là Nguyễn Trần Gia N, sinh ngày 24/02/2014, hiện đang sống với chị L và Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 24/02/2009, hiện đang sống với anh P.

Xét thấy việc quyết định giao con cho người cha hoặc người mẹ nuôi dưỡng sau khi ly hôn cần phải dựa trên quyền lợi về mọi mặt của người con, về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Chị L là người đang trực tiếp nuôi cháu N và cháu N cũng có nguyện vọng sống chung với chị L, còn cháu L1 đang sống với anh P và có nguyện vọng sống chung với anh P.

Hội đồng xét xử xét thấy, chị L và anh P đang chăm sóc, giáo dục con chung, mỗi người nuôi một cháu và cháu Nghi trình bày nguyện vọng sống với chị L, còn cháu Lộc trình bày nguyện vọng sống với anh P. Do đó để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển của các cháu, tránh thay đổi chổ ở hiện tại. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Hồng L là giao cháu Nguyễn Trần Gia N, sinh ngày 24/02/2014 cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 24/02/2009 cho anh P tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

Chị Trần Thị Hồng L và anh Nguyễn Văn P được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Hồng L và anh Nguyễn Văn P chưa yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Chị Trần Thị Hồng L và anh Nguyễn Văn P khai không yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, 266, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Hồng L được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

[2]. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Trần Gia N, sinh ngày 24/02/2014 cho chị Trần Thị Hồng L tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của cháu.

Giao cháu Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 24/02/2009 cho anh Nguyễn Văn P tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của cháu.

Chị Trần Thị Hồng L và anh Nguyễn Văn P được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Hồng L và anh Nguyễn Văn P chưa yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Chị Trần Thị Hồng L và anh Nguyễn Văn P khai không yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Hồng L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0010448 ngày 05/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Chị Trần Thị Hồng L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về