Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 57/2022/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2022 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Minh T, sinh năm 1993; địa chỉ: 250C đường T, khu phố Đ, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Võ Thị Kim C, sinh năm 1996; thường trú: 30/17 khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn anh Phạm Minh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt tuy nhiên theo đơn khởi kiện ngày 11 tháng 10 năm 2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Phạm Minh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Minh T và chị Võ Thị Kim C sau thời gian tự nguyện tìm hiểu thì tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương vào năm 2015, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 147, quyển số 01/2015 ngày 10/10/2015. Thời gian đầu mới kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, sống cùng nhà nhưng mạnh ai lấy sống, chị C không dành tình cảm yêu thương cho anh T. Chị C bỏ nhà đi từ tháng 02/2019 đến nay, không có bất kỳ liên hệ nào với gia đình, anh T không biết chị C đang ở đâu. Nay, anh T xác định không còn tình cảm với chị C nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với chị C.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung, cháu Phạm Thanh P, sinh ngày 28/9/2015. Hiện con chung đang do anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, anh T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Thống nhất vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về phía bị đơn chị Võ Thị Kim C:

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã giao thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu chị Võ Thị Kim C có ý kiến trả lời bằng văn bản đối với các yêu cầu của anh Phạm Minh T nhưng chị Võ Thị Kim C không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Võ Thị Kim C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 04/3/2022 nhưng chị C vắng mặt không có lý do; đồng thời c ng không có ý kiến và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của anh T.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hôn nhân, anh Phạm Minh T và chị Võ Thị Kim C có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống không hạnh phúc do mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện chị C đã bỏ đi không rõ nơi cư trú. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn và yêu cầu giải quyết về con chung là có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về tài sản chung và nợ chung các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Anh Phạm Minh T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị Võ Thị Kim C. Chị Võ Thị Kim C cư trú tại 30/17 khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương nên đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về việc tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương được quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Theo biên bản xác minh ngày 18/02/2022 của Tòa án tại Công an phường Dĩ An, thành phố Dĩ An xác định bị đơn chị Võ Thị Kim C có đăng ký thường trú tại địa chỉ 30/17 khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương nhưng đã bỏ đi khỏi địa phương, khi đi không trình báo nên chính quyền địa phương không biết hiện chị C cư trú tại đâu. Ngày 24/9/2021 Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An đã ban hành quyết định giải quyết việc dân sự tuyên bố chị Võ Thị Kim C mất tích.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để triệu tập chị Võ Thị Kim C về làm việc nhưng chị C vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc. Chị Võ Thị Kim C đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa vào ngày 21/3/2022 và ngày 30/3/2022 nhưng chị Võ Thị Kim C vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn anh Phạm Minh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định của pháp luật.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Minh T và chị Võ Thị Kim C là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 147 ngày 10/10/2015 nên quan hệ hôn nhân của anh Phạm Minh T và chị Võ Thị Kim C là hợp pháp.

Anh Phạm Minh T xác định cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, hai vợ chồng sống cùng nhà nhưng mạnh ai lấy sống, chị C đã bỏ nhà đi từ tháng 02 năm 2019, cuộc sống gia đình và việc chăm sóc các con do một mình anh T quán xuyến. Mâu thuẫn kéo dài dẫn đến việc anh T không còn tình cảm và muốn yêu cầu ly hôn với chị C. Bản thân chị Võ Thị Kim C, sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập chị C đến tham gia phiên hòa giải để hóa giải mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị C không có mặt và c ng không có bất kỳ ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn, điều này chứng tỏ chị C không muốn hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Qua đó thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng của anh T đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, anh Phạm Minh T yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống anh Phạm Minh T và chị Võ Thị Kim C có một con chung, cháu Phạm Thanh P, sinh ngày 28/9/2015. Hiện con chung đang do anh T nuôi dưỡng. Sau ly hôn, anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét con chung hiện đang do anh T nuôi dưỡng, chị C đã bỏ nhà đi hiện không rõ cư trú tại đâu. Qua đó thấy rằng việc giao con chung cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của nguyên đơn và phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Anh Phạm Minh T không yêu cầu chị Võ Thị Kim C cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của đương sự nên Tòa án ghi nhận.

[5] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về chi phí đăng thông báo: Nguyên đơn anh Phạm Minh T tự nguyện chịu toàn bộ chi phí với số tiền 2.500.000 đồng nên Tòa án ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn.

[8] Xét ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về quan điểm giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật, nên có cơ sở chấp nhận.

[9] Án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn: Anh Phạm Minh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Minh T được ly hôn với chị Võ Thị Kim C (Giấy chứng nhận kết hôn số 147, quyển số 01/2015 do Ủy ban nhân dân phường Đ, thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình dương cấp ngày 10/10/2015).

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Thanh P, sinh ngày 28/9/2015 cho anh Phạm Minh T trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Minh T không yêu cầu chị Võ Thị Kim C cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau ly hôn anh Phạm Minh T và chị Võ Thị Kim C đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì quyền lợi hợp pháp của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về chi phí đăng thông báo: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Minh T tự nguyện chịu toàn bộ chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu, năm trăm nghìn đồng).

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Phạm Minh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí về ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003426 ngày 19/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

6. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về