Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 25/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 25/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 956/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2020 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thái G, sinh năm 1989 (có mặt). Địa chỉ: Ấp K, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Bà Đỗ Thị T, sinh năm 1991 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp K, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 28/10/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Thái G trình bày:

Qua thời gian tìm hiểu, ông G và bà T có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn vào ngày 28/6/2012 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B (nay là thị xã B), tỉnh Bình Dương. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc.

Sau một thời gian chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bà T kinh doanh bất động sản và thua lỗ. Quá trình làm ăn kinh doanh bà T không bàn bạc hay thỏa thuận gì với ông G, bà T tự ý lấy tiền đi làm ăn kinh doanh và gây ra nợ nần. Bà T thường xuyên đi sớm về trễ, không quan tâm chăm sóc cho con cái, mặc dù ông G đã nhắc nhở nhiều lần nhưng bà T vẫn không thay đổi. Từ đó, ông G và bà T không có tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân. Bà T bỏ nhà ra đi không có tin tức gì, một mình ông G phải tự nuôi dưỡng chăm sóc con cái. Vợ chồng sống ly thân nhau gần 01 năm nay. Nay ông G không còn tình cảm với bà T, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông G yêu cầu ly hôn với bà T.

Về con chung: Ông G và bà T có 02 con chung là Nguyễn Thái H, sinh ngày 12/9/2013 và Nguyễn Thái K, sinh ngày 04/7/2016. Từ khi vợ chồng không còn sống chung, cháu H và cháu K do ông G trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, ông G yêu cầu nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông G không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát :

- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Quan hệ pháp luật các bên tranh chấp là tranh chấp về ly hôn, nuôi con; bị đơn cư trú tại ấp Kiến An, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thái G và bà Đỗ Thị T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương, hôn nhân tự nguyện, do đó hôn nhân giữa ông G và bà T là hợp pháp.

Ông G yêu cầu ly hôn vì trong thời gian vợ chồng chung sống bà T không quan tâm chăm sóc cho chồng con, tự ý làm ăn kinh doanh gây ra nợ nần, ông G đã nhiều lần nhắc nhở nhưng bà T không thay đổi. Vợ chồng sống ly thân nhau gần 01 năm nay. Bà T bỏ nhà ra đi không có tin tức gì, một mình ông G phải tự nuôi dưỡng chăm sóc con cái. Hiện tại, ông G không còn tình cảm với bà T, mâu thuẫn đã quá trầm trọng, không thể hàn gắn được do đó ông G yêu cầu ly hôn với bà T.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bà T đến tham gia hòa giải đoàn tụ, tham gia tố tụng cũng như tham gia phiên tòa nhưng bà T không tham gia và cũng không có văn bản trình bày ý kiến. Điều này cho thấy bà T không quan tâm đến hạnh phúc gia đình, không muốn hàn gắn với ông G.

Như vậy, mâu thuẫn giữa ông G và bà T đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì hôn nhân, do đó yêu cầu ly hôn của ông G là có cơ sở và được chấp nhận.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông G và bà T có 02 con chung là Nguyễn Thái H, sinh ngày 12/9/2013 và cháu Nguyễn Thái K, sinh ngày 04/7/2016. Cháu H và cháu K hiện do ông G nuôi dưỡng đã ổn định. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu của ông G giao 02 cháu H và cháu K cho ông G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; bà T không phải cấp dưỡng nuôi con do ông G không có yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông G không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết và bà T cũng không có ý kiến gì vấn đề này nên không xem xét giải quyết.

[3] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông G phải chịu theo quy định pháp luật.

[4] Các đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thái G đối với bị đơn bà Đỗ Thị T về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”; ông Nguyễn Thái G được ly hôn với bà Đỗ Thị T.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Nguyễn Thái H, sinh ngày 12/9/2013 và cháu Nguyễn Thái K, sinh ngày 04/7/2016 cho ông Nguyễn Thái G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; bà Đỗ Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông G và bà T đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, bà T được quyền thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Ông Nguyễn Thái G phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số: AA/2016/0048309 ngày 28/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 25/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về