Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 24/2023/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 24/2023/HNGĐ-PT NGÀY 15/12/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong các ngày 14, 15 tháng 12 năm 2023, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 22/2023/TLPT-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2023, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”.

Do Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 160/2023/HNGĐ-ST, ngày 07 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 18/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Cẩm M, sinh năm 2002. (Có mặt) Nơi cư trú: Thôn A, xã Phổ An, thị xã Đức Phổ, tỉnh Q

Địa chỉ hiện nay: Số 473/17, hẻm Làng Hoa Kiển Cầu Bà Bộ, phường Long Hòa, quận B, thành phố C.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Trần Văn Đ - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Trần Đ, Đoàn Luật sư tỉnh H. (Có mặt)

Bị đơn: Anh Bùi Vũ K, sinh năm 1994. (Có mặt)

Nơi cư trú: Ấp Xuân Thọ, xã Vĩnh Tường, huyện V, tỉnh H.

Địa chỉ hiện nay: Ấp Trường Khánh 2, xã Long Thạnh, huyện P, tỉnh H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Từ Thị P, sinh năm 1971. (Có mặt)

Địa chỉ: Ấp Trường Khánh 2, xã Long Thạnh, huyện P, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:

Nguyên đơn chị Lê Cẩm M trình bày:

Nguyên đơn và bị đơn quen biết nhau đi đến kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức đám cưới năm 2019 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Tường, huyện V, tỉnh H. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng về sau hai bên thường xuyên xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng ý kiến và ngày càng trầm trọng, dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nguyên đơn và bị đơn đã ly thân, bị đơn về sống tại nhà mẹ ruột tại ấp Trường Khánh 2, xã Long Thạnh, huyện P, tỉnh H từ tháng 12/2021 đến nay.

Về con chung: Giữa nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung là cháu Bùi Vũ An N, giới tính nữ, sinh ngày 29/6/2020. Hiện cháu đang học tại Trường Mầm non Long Hòa, quận B, thành phố C. Khoảng 02 tháng nay, bị đơn anh Bùi Vũ K đến thăm con và bắt cháu Bùi Vũ An N về sống ở ấp Trường Khánh 2, xã Long Thạnh, huyện P, tỉnh H. Nguyên đơn yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nguyên đơn đang làm tại thành phố C, thu nhập hàng tháng 15 triệu (có hợp đồng lao động), từ trước đến nay nguyên đơn là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Hiện nguyên đơn đang sống cùng cha, mẹ ruột tại hẻm làng hoa Kiển Cầu Bà Bộ, phường Long Hòa, quận B, thành phố C.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Bùi Vũ K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất với nguyên đơn về việc đăng ký kết hôn và quá trình chung sống. Trong thời gian sống chung giữa nguyên đơn và bị đơn có phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Nay nguyên đơn yêu cầu ly hôn thì bị đơn đồng ý.

Về con chung: Bị đơn thống nhất có 01 con chung là Bùi Vũ An N, hiện do bị đơn nuôi dưỡng, sau khi ly hôn bị đơn yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu nguyên đơn cấp dưỡng nuôi con. Từ trước đến nay cháu Bùi Vũ An N sống chung với hai vợ chồng ở hẻm làng hoa Kiển cầu Bà Bộ, phường Long Hòa, quận B, thành phố C. Đến năm 2021 khi vợ chồng không sống chung thì cũng thường tới lui thăm con, hàng tuần có rước con về nhà ông bà nội chơi. Cháu An N trước đây gửi nhà trẻ ở C.

Hiện nay, bị đơn đang ở chung với mẹ ruột tại ấp Trường Khánh 2, xã Long Thạnh, huyện P, tỉnh H, không có nhà riêng. Bị đơn đang làm dịch vụ karaoke, quán bar ở C, thu nhập hàng tháng khoảng 8 – 9 triệu.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Từ Thị P trình bày:

Vào năm 2019 bà Từ Thị P có lập gia đình cho con trai là anh Bùi Vũ K, con dâu là chị Lê Cẩm M. Con chung của vợ chồng anh Bùi Vũ K và chị Lê Cẩm M là cháu Bùi Vũ An N, sinh ngày 29/6/2020, giới tính nữ, hiện nay bà P là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Đến nay, cháu Bùi Vũ An N đã ổn định bên gia đình của bà nên bà P yêu cầu Tòa án xem xét và giao bé Bùi Vũ An N cho anh Bùi Vũ K là người trực tiếp nuôi dưỡng.

Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo, nghĩa vụ án phí và quyền yêu cầu thi hành án.

Ngày 11 tháng 9 năm 2023, bị đơn anh Bùi Vũ K kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm, giao cho anh được quyền trực tiếp nuôi con chung là cháu Bùi Vũ An N, giới tính nữ, sinh ngày 29/6/2020, không yêu cầu chị Lê Cẩm M Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn chị Lê Cẩm M giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con. Bị đơn anh Bùi Vũ K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm về tranh chấp quyền nuôi con. Nguyên đơn chị Lê Cẩm M yêu cầu Tòa án giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Nguyên không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ mới. Bị đơn bổ sung các tài liệu gồm: Giấy xác nhận của Ban giám hiệu Trường mẫu giáo Long Thạnh, xác nhận cháu Bùi Vũ An N đang học lớp Mầm 2 (năm học 2023-2024); Giấy chứng nhận của Trường mẫu giáo Long Thạnh, chứng nhận cháu Bùi Vũ An N đạt “Bé vui khỏe” cấp trường; Giấy chứng nhận bảo hiểm toàn diện học sinh cho cháu Bùi Vũ An N.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn chị Lê Cẩm M đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Bùi Vũ K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị đơn anh Bùi Vũ K kháng cáo tranh chấp quyền nuôi con nhưng ông không chứng minh được nguyên đơn không đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Bùi Vũ An N. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Bùi Vũ K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Nguyên đơn chị Lê Cẩm M khởi kiện bị đơn anh Bùi Vũ K xin ly hôn, tranh chấp nuôi con. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện P, tỉnh H nên Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh H giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn anh Bùi Vũ K có đơn kháng cáo đúng quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung Bị đơn anh Bùi Vũ K yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm, giao cho anh được quyền nuôi con là cháu Bùi Vũ An N, giới tính nữ, sinh ngày 29/6/2020.

Hội đồng xét xử xét thấy, trong thời kỳ hôn nhân, giữa nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung là cháu Bùi Vũ An N, giới tính nữ, sinh ngày 29/6/2020. Quá trình giải quyết vụ án cả nguyên đơn và bị đơn đều tranh chấp quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Từ khi được sinh ra cháu Bùi Vũ An N sống cùng cha mẹ là chị M và cha là anh K. Đến nay cháu Bùi Vũ An N đã trên 36 tháng tuổi, nên việc xác định cha hoặc mẹ có quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung không còn ưu tiên cho người mẹ nữa, mà xem xét điều kiện tốt nhất để cho cháu Bùi Vũ An N phát triển về tinh thần và thể chất. Hiện nay cháu Bùi Vũ An N đang sống ổn định bên gia đình của anh Bùi Vũ K, tại ấp Trường Khánh 2, xã Long Thạnh, huyện P, tỉnh H. Cháu N đã được đi học tại lớp Mầm 2, Trường mẫu giáo Long Thạnh, huyện P, tỉnh H. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, cần thiết ổn định tâm lý cho cháu Bùi Vũ An N, giao cháu cho cha là anh Bùi Vũ K được quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục.

Bản án sơ thẩm nhận định cháu Bùi Vũ An N, giới tính nữ nên cần thiết phải giao cháu N cho mẹ là chị Lê Cẩm M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là chưa toàn diện. Bởi lẽ, cháu N hiện nay đã ổn định tâm lý sinh sống bên gia đình anh Bùi Vũ K, có sự hỗ trợ của bà nội cháu N là bà Từ Thị P. Đó là môi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển bình thường của cháu N. Bị đơn đã chứng minh được cháu Bùi Vũ An N đã hoàn toàn thích nghi với cuộc sống bên gia đình của anh và đã có xác nhận của nhà Trường nơi cháu N theo học mẫu giáo lớp mầm 2, cháu được công nhận “Bé vui khỏe” cấp trường.

Mặt khác, anh Bùi Vũ K đã có cam kết tạo điều kiện tốt nhất để cho chị Lê Cẩm M đến thăm nom, chăm sóc cháu Bùi Vũ An N. Như vậy, cam kết của anh Bùi Vũ K đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Việc chị Lê Cẩm M đến thăm nom cháu N, không được gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bùi Vũ An N.

Theo quy định tại Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho các đương sự trong vụ án được rõ về quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung, quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con sau ly hôn:

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Lê Cẩm M, không chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giao cháu Bùi Vũ An N cho chị Lê Cẩm M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Bùi Vũ K, sửa bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Do giữa nguyên đơn và bị đơn thuận tình ly hôn nên Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm áp dụng giải đáp một số vương mắc trong xét xử số 02/TANDTC-PC ngày 02 tháng 8 năm 2021 để xác định án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm phù hợp. Do đó, các bên chỉ phải chịu là 150.000 đồng. Chị Lê Cẩm M tự nguyện chịu phần án phí nên khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị M đã nộp theo Biên lại số 0012363 ngày 14 tháng 02 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P thành tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị M được nhận lại 150.000 đồng phần tiền tạm ứng còn dư.

- Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Nguyên đơn chị Lê Cẩm M, anh Bùi Vũ K không ai phải chịu.

[5] Các phần quyết định của Bản án sơ thẩm không bị Viện kiểm sát kháng nghị, không bị đương sự kháng cáo, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về qui định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Bùi Vũ K. Sửa bản án sơ thẩm. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Cẩm M với anh Bùi Vũ K. Giấy chứng nhận kết hôn số 24, ngày 14/3/2022 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Tường, huyện V, tỉnh H không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Vũ An N, giới tính nữ, sinh ngày 29/6/2020 cho anh Bùi Vũ K nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị Lê Cẩm M chưa có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Lê Cẩm M có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

4. Về án phí:

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Lê Cẩm M phải chịu 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003200 ngày 02 tháng 8 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, chị Lê Cẩm M được nhận lại 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh H.

- Về án phí phúc thẩm: Không ai phải chịu.

Hoàn lại cho anh Bùi Vũ K 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003255 ngày 11 tháng 9 năm 2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh H.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Ngày 15/12/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 24/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:24/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về