Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 219/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 219/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 371/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 298/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 254/2021/QDST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1 Nguyên đơn: Bà Trương Thị Bích T, sinh năm 1987; nơi cư trú: ấp A, xã P, thị xã T, tỉnh An Giang;

Bị đơn: Ông Lê Long H, sinh năm 1988; nơi cư trú: ấp M, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Trương Thị Bích T trình bày: Bà và ông Lê Long H tự nguyện chung sống với nhau năm 2007, hôn nhân do hai bên tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, thị xã T, tỉnh An Giang. Trong quá trình chung sống, bà và ông H sống hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, không có tiếng nói chung, ông H không quan tâm, chăm sóc vợ con. Bà và ông H ly thân từ năm 2019 đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Vì vậy, bà Trương Thị Bích T xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Lê Long H.

Về con chung: Bà và ông H có 03 (ba) con chung tên Lê Thị Tường V, sinh ngày 27/02/2011; Lê Huỳnh A, sinh ngày 12/8/2015; Lê Kim A, sinh ngày 04/9/2018, hiện cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A do bà Tchăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà Tyêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A. Không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Lê Long H đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến về các yêu cầu đã trình bày.

Bị đơn, ông Lê Long H vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trương Thị Bích T với ông Lê Long H.

Bà Trương Thị Bích T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 03 con chung tên Lê Thị Tường V, sinh ngày 27/02/2011; Lê Huỳnh A, sinh ngày 12/8/2015; Lê Kim A, sinh ngày 04/9/2018; ông Lê Long H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do ông Lê Long H đang cư trú tại xã M, huyện C, tỉnh An Giang nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2]. Về quan hệ pháp luật: Bà Trương Thị Bích T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Long H, yêu cầu được nuôi con chung. Đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp về nuôi con là phù hợp.

[3]. Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng xác định nguyên đơn bà Trương Thị Bích T, bị đơn ông Lê Long H.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Lê Long H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Trương Thị Bích T có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H, bà T.

* Về nội dung:

[4].Về quan hệ hôn nhân: Bà Tvà ông H tự nguyện sống chung với nhau năm 2008, đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 57/2010, quyển số 1/2010 ngày 23/7/2010 do Ủy ban nhân dân xã P, thị xã T, tỉnh An Giang cấp cho bà Trương Thị Bích T, ông Lê Long H. Vì vậy, hôn nhân giữa bà Tvà ông H là hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, bà và ông H bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, ông H không quan tâm đến vợ con, bà và ông H không còn sống chung từ năm 2019 đến nay, ông H không tới lui hàn gắn tình cảm và chăm sóc con chung; bà Tnộp đơn khởi kiện ly hôn Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông H không đến Tòa án để làm việc, thể hiện ông H không mong muốn hàn gắn tình cảm với bà T.

Căn cứ lời khai của nguyên đơn, chứng cứ trong hồ sơ, thể hiện giữa bà T, ông H không còn tình cảm, ông, bà đã ly thân trong thời gian dài, không liên lạc với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.

[5]. Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 03 (ba) con chung tên Lê Thị Tường V, sinh ngày 27/02/2011; Lê Huỳnh A, sinh ngày 12/8/2015; Lê Kim A, sinh ngày 04/9/2018. Hiện cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A do bà Tchăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà Tyêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện nay cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A đã sống ổn định với bà T, cháu Vi cũng có nguyện vọng sống với bà T. Bà Tyêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, ông H cũng không có ý kiến phản đối. Tại biên bản xác minh ngày 04/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thì cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A sống với bà Tphát triển tốt về tinh thần và thể chất, nhà bà Tgần trường học, trạm y tế, đảm bảo về việc học hành cũng như chăm sóc sức khỏe cho cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà Tlà được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V, cháu Huỳnh A, cháu Kim A.

[6]. Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7]. Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết [8]. Về nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[9]. Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về quan điểm giải quyết án.

[10]. Về án phí: Bà Trương Thị Bích T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự - Căn cứ Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Trương Thị Bích T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 57/2010, quyển số 1/2010 ngày 23/7/2010 do Ủy ban nhân dân xã P, thị xã T, tỉnh An Giang cấp bà Trương Thị Bích T, ông Lê Long H không còn giá trị pháp lý.

Về quan hệ con chung: Bà Trương Thị Bích T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 03 (ba) con chung tên Lê Thị Tường V, sinh ngày 27/02/2011; Lê Huỳnh A, sinh ngày 12/8/2015; Lê Kim A, sinh ngày 04/9/2018.

Ông Lê Long H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trương Thị Bích T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Lê Long H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Trương Thị Bích T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0002703 ngày 04 tháng 5 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Bà T đã nộp đủ.

Bà Trương Thị Bích T, ông Lê Long H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 219/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:219/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về