Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 04/7/2022, tại Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 127/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1991. (Có mặt); Địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1987. (Vắng mặt); Địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai của đương sự và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày: Bà Nguyễn Thị Q và ông Nguyễn Văn K tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tuy Phong theo Giấy chứng nhận kết hôn số 58 ngày 21/11/2008. Thời gian đầu vợ chồng còn hạnh phúc, nhưng thời gian sau này ông K thường xuyên ăn nhậu, trai gái, đánh vợ đánh con, bà Q nhiều lần khuyên nhưng ông K vẫn không thay đổi. Bà Q và ông K không còn chung sống như vợ chồng từ tháng 02/2022 đến nay và cũng không liên lạc gì với nhau nữa, ông K lâu lâu có về thăm các con chứ không nói chuyện với bà Q. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, không tìm được tiếng 2 nói chung, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Q khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Q ly hôn ông Nguyễn Văn K.

+ Về con chung: Quá trình chung sống, bà Q và ông K có 02 con chung là Nguyễn Văn Anh T sinh ngày 27/7/2009 và Nguyễn Văn Anh T1 sinh ngày 30/6/2015, hiện nay bà Q đang trực tiếp nuôi dưỡng, nay bà Q yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 28/3/2022, bị đơn trình bày: Thời gian đầu vợ chồng còn hạnh phúc nhưng trong khoảng 03 năm gần đây, bà Q thường đánh bài ăn tiền từ khoảng 20 giờ đến 23 giờ nên ông K góp ý và đôi khi cũng có đánh bà Q do nóng quá, đến nay bà Q vẫn không bỏ được bài bạc, giận quá nên ông K bỏ nhà đi. Ông K và bà Q không còn chung sống như vợ chồng từ ngày 12/02/2022 đến nay, ông K vẫn quan tâm đến vợ con, nhưng do công việc nên không có thời gian về. Ông K không đồng ý ly hôn bà Q. Sau đó thì bị đơn đều không có mặt tại Tòa để tham gia tố tụng.

Ngày 05/4/2022, Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong đã tiến hành xác minh tại Thôn N, xã P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, kết quả như sau: Ông Nguyễn Văn K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn N, xã P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Từ tháng 02/2022 đến nay, ông K đã bỏ địa phương đi đâu, làm gì không rõ. Về tình trạng hôn nhân: Đầu năm 2022, bà Q và ông K phát sinh mâu thuẫn là do ông K không lo làm ăn nên vợ chồng cãi nhau, mỗi lần cãi nhau thì ông K hay đánh bà Q. Về con chung: Bà Q và ông K có 02 con chung là Nguyễn Văn Anh T sinh ngày 27/7/2009 và Nguyễn Văn Anh T1 sinh ngày 30/6/2015, hiện nay bà Q đang trực tiếp nuôi dưỡng.

Do không thể tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng cho bị đơn nên Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng: Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong:

Về việc tuân theo pháp luật, thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký tiến hành tố tụng đ ng quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Văn Anh T sinh ngày 27/7/2009 và Nguyễn Văn Anh T1 sinh ngày 30/6/2015, đề nghị giao 02 con chung cho bà Nguyễn Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa cũng như căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Q khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Văn K và tranh chấp nuôi con chung do đó Tòa án thấy rằng đây là “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn có địa chỉ cư tr tại xã P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Q và ông Nguyễn Văn K tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận nên hôn nhân hợp pháp. Theo lời trình bày của nguyên đơn và biên bản xác minh tại địa phương thì sau khi xảy ra mâu thuẫn vợ chồng, bà Q và ông K không còn chung sống như vợ chồng từ tháng 02/2022 đến nay và cũng không còn quan tâm đến nhau nữa, nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà Q yêu cầu ly hôn ông K. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông K đến giải quyết nhưng ông không chấp hành, điều này chứng tỏ ông K không có thiện chí và không có mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà Q. Như vậy tình trạng hôn nhân của bà Q và ông K đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, để đảm bảo quyền lợi của các đương sự và ổn định cuộc sống cho các bên, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

[3] Về con chung: Bà Q và ông K có 02 con chung là Nguyễn Văn Anh T sinh ngày 27/7/2009 và Nguyễn Văn Anh T1 sinh ngày 30/6/2015, theo biên bản xác minh tại địa phương thì 02 con chung hiện nay bà Q đang nuôi dưỡng. Bà Q yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, xét thấy yêu cầu của bà Q là có cơ sở chấp nhận bởi lẽ từ khi không còn chung sống như vợ chồng thì bà Q là người trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, nên giao con chung là Nguyễn Văn Anh T và Nguyễn Văn Anh T1 cho bà Q tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con, bà Q không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.

4 [6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Q được ly hôn ông Nguyễn Văn K.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Văn Anh T sinh ngày 27/7/2009 và Nguyễn Văn Anh T1 sinh ngày 30/6/2015 cho bà Nguyễn Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Nguyễn Văn K được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Q là nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003350 ngày 10/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong. Bà Nguyễn Thị Q đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:04/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về