TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 210/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 12 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 817/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2022/QĐXX-ST ngày 23/6/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Trung H, sinh năm 1994. HKTT: Tổ dân phố H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh. Địa chỉ liên lạc: Tổ B, ấp P, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Hoàng Y, sinh năm 1985.
Địa chỉ: khu phố M, phường T1, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai.
(ông H, bà Y có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn ông Phan Trung H trình bày:
Ông và bà Y xây dựng gia đình với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T1, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai. Vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hòa hợp. Mặc dù đã cố gắn hàn gắn nhưng mâu thuẫn ngày càng thường xuyên và trầm trọng. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Y.
Về con chung: Có 02 cháu tên Phan Ngọc N, sinh ngày 14/6/2015 và Phan Thiện N1, sinh ngày 20/3/2018. Ly hôn ông đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N1, giao cháu N cho bà Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Ngoài ra không yêu cầu gì khác.
- Tại bản tự khai, bị đơn bà Nguyễn Hoàng Y trình bày:
Bà và ông H kết hôn năm 2014, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T1, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai. Hai vợ chồng chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H đối xử không tốt với bà, đập phá đồ đạc. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Nay ông H kiên quyết xin ly thì bà Y đồng ý.
Về con chung: Có 02 cháu tên Phan Ngọc N, sinh ngày 14/6/2015 và Phan Thiện N1, sinh ngày 20/3/2018. Ly hôn bà đề nghị dược trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Ngoài ra không yêu cầu gì khác.
* Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên Tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng các thủ tục theo quy định pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án:
+ Về quan hệ hôn nhân: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của ông Phan Trung H. Ông Phan Trung H được ly hôn với bà Nguyễn Hoàng Y.
+ Về con chung: đề nghị giao 02 cháu Phan Ngọc N, sinh ngày 14/6/2015 và Phan Thiện N1, sinh ngày 20/3/2018 cho bà Y nuôi dưỡng. Tạm thời ông H không cấp dưỡng nuôi con.
+ Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.
+ Về án phí: ông H phải nộp án phí ly hôn theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Vụ án tranh chấp ly hôn có bị đơn cư trú tại thành phố Biên Hòa nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Phan Trung H và bà Nguyễn Hoàng Y tự nguyện tìm hiểu, sống chung với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T1, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ các điều 9, 10, 11, 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 xác định quan hệ hôn nhân của ông H, bà Y là hợp pháp. Nay ông H xin ly hôn, Tòa án căn cứ vào Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.
[3] Về yêu cầu xin ly hôn của ông H: Ông H xin ly hôn với bà Y với lý do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, tính tình không hợp. Bà Y cũng trình bày hai vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Ông H, bà Y đều nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn.
Xét thấy, ông H, bà Y quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, Tòa án đã thu thập tài liệu, chứng cứ, ý kiến của ông H, bà Y về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, nội dung này cả ông H, bà Y đều thừa nhận nên thuộc tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng ông H vẫn kiên quyết xin ly hôn và bà Y cũng đồng ý ly hôn. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của ông H có cơ sở chấp nhận.
[4] Về con chung: có 02 con chung là cháu Phan Ngọc N, sinh ngày 14/6/2015 và Phan Thiện N1, sinh ngày 20/3/2018. Ly hôn, ông H đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N1, đồng ý giao cháu N cho bà Y chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai cấp dưỡng nuôi con. Bà Y có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông H, bà Y đều trình bày có đủ điều kiện về kinh tế, nơi ở, thời gian để chăm sóc hai con.
Xét thấy, ông H, bà Y đều có điều kiện kinh tế, sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt để nuôi dạy con. Tuy nhiên, cháu N1 còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc, gần gũi của người mẹ hơn. Hiện nay cháu N1 đang ở cùng với bà Y và cháu Phan Ngọc N, tình cảm chị em của hai cháu N và N1 đang gắn bó thân thiết với nhau. Để đảm bảo việc ổn định cuộc sống phát triển toàn diện về thể chất cũng như tinh thần của hai cháu N và N1, Hội đồng xét xử nhận thấy giao hai cháu N và N1 cho bà Y nuôi dưỡng là phù hợp. Bà Y không yêu cầu ông H cấp dưỡng nên không đặt ra giải quyết.
[5] Về tài sản chung: Ông H, bà Y khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[6] Về nợ chung: Ông H, bà Y khai không có, không yêu cầu giải quyết.
[7] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Ông H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
[8] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điều 203, điều 235, điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Áp dụng Điều 9, 10, 11, 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; điều 51, 53, 54, 56, 57, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;
1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Phan Trung H. Ông Phan Trung H được ly hôn với bà Nguyễn Hoàng Y.
2. Về con chung: Có 02 cháu tên Phan Ngọc N, sinh ngày 14/6/2015 và Phan Thiện N1, sinh ngày 20/3/2018. Ly hôn, giao 02 con chung cho bà Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Vì không trực tiếp nuôi con nên ông H được quyền đi lại thăm con không ai cản trở. Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết ông bà được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.
4. Về nợ chung: Không có.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được trừ vào tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 01883 ngày 21/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 210/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 210/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về