TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 198/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Trong ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 369/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Võ Thị K, sinh năm: 1976; (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp Ht, xã H, huyện C, tỉnh T.
- Bị đơn: Ông Ngô Văn U, sinh năm: 1972; (vắng mặt) Địa chỉ: ấp Ht, xã H, huyện C, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Bà Võ Thị K trình bày:
Bà và Ông Ngô Văn U chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2000, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 41 ngày 13/6/2005. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, Ông U thường xuyên cờ bạc và không chăm lo cho gia đình, bà đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng Ông U vẫn không thay đổi. Bà và Ông U đã ly thân từ năm 2021 cho đến nay, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với Ông U.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Ngô Quốc K, sinh ngày 19/9/2004, hiện con chung đang sống với mẹ. Khi ly hôn, Bà K yêu cầu nuôi dưỡng con chung, bà không yêu cầu Ông U cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn Ông Ngô Văn U dù được tống đạt đầy đủ văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt và không có lời trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn Bà Võ Thị K có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn Ông Ngô Văn U dù được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt Bà K và Ông U.
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét thấy, Bà K yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn và nuôi con với Ông U nên đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do bị đơn Ông U có nơi cư trú tại huyện Cái Bè nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, Bà K và Ông U kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 41 ngày 13/6/2005 nên là hôn nhân hợp pháp. Bà K cho rằng bà và Ông U chung sống hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, Ông U thường xuyên cờ bạc và không chăm lo cho gia đình, bà đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng Ông U vẫn không thay đổi. Bà và Ông U đã ly thân từ năm 2021 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Bà K cương quyết xin ly hôn, còn Ông U thì không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng không có ý kiến gì về việc Bà K xin ly hôn với ông. Từ đó cho thấy Ông U đã không yêu thương, quan tâm và không có ý định hàn gắn tình cảm cũng như mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà K.
[4] Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Ngô Quốc K, sinh ngày 19/9/2004, hiện con chung đang sống với Bà K. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu Ông U cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, sau khi ly thân Bà K là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Cháu K khỏe mạnh và ổn định cho đến nay. Đồng thời, Cháu K cũng có nguyện vọng sống với mẹ nên việc giao con chung cho Bà K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định pháp luật và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà K không yêu cầu Ông U cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này có yêu cầu thì khởi kiện bằng vụ án khác.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà K trình bày không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung, Ông U không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[7] Về án phí: Bà K phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Võ Thị K.
Về quan hệ hôn nhân: Cho Bà Võ Thị K được ly hôn với Ông Ngô Văn U.
Về con chung: Giao con chung tên Ngô Quốc K, sinh ngày 19/9/2004 cho Bà Võ Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Ông Ngô Văn U có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
2. Về án phí: Bà Võ Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Bà Võ Thị K đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0009744 ngày 12/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Vậy Bà K đã thi hành xong án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Bà Võ Thị K và Ông Ngô Văn U có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 198/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 198/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về