Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 166/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 166/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 267/2022/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 373/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 355/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Diễm M, sinh năm 1995. Có đơn xin xét xử vắng mặt Cư trú: Ấp A, xã L, huyện M, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: Ông Phan Ngọc T, sinh năm 1991. Vắng mặt Cư trú: Ấp B, xã K, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà Lê Thị Diễm M, trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Diễm M và ông Phan Ngọc T tự nguyện tìm hiểu sau đó tiến đến hôn nhân. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Hậu Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 89/2018 ngày 24/10/2018. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau.

Nguyên nhân do ông T thường xuyên nhậu nhẹt về khuya, không quan tâm đến vợ con. Bà M đã nhiều lần khuyên răn nhưng ông T không thay đổi. Vợ chồng đã ly thân nhau từ tháng 2 năm 2021 đến nay. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà M yêu cầu được ly hôn với ông T.

+ Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Phan Lê Như Y, sinh ngày 18/11/2019. Hiện nay con chung đang sống chung với bà M. Khi ly hôn, bà M yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn: Ông Phan Ngọc T vắng mặt trong quá trình tố tụng, không có văn bản trình bày ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, là đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê Thị Diễm M tranh chấp về ly hôn, nuôi con với ông Phan Ngọc T, tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông T có nơi cư trú tại thành phố L, tỉnh An Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không tham gia phiên tòa, bà M có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt bà M và ông T.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân:

[3.1.1] Bà M và ông T tự nguyện quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Hậu Giang cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 89/2018 ngày 24/10/2018. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình. Bà M khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T. Bà M cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T thường xuyên nhậu nhẹt về khuya, không quan tâm đến vợ con.

[3.1.2] Hội đồng xét xử xét: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông T không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà M, không tham dự các phiên hòa giải cũng như không tham dự các phiên tòa. Điều này thể hiện ông T không muốn đoàn tụ gia đình. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, các bên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà M là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Bà M và ông T có 01 (một) con chung tên Phan Lê Như Y, sinh ngày 18/11/2019. Hiện nay cháu Phan Lê Như Y đang sống chung với bà M. Bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

[3.2.1] Xét thấy, cháu Phan Lê Như Y chưa thành niên, bà M có công việc làm ổn định đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu Như Y. Ông T không có ý kiến về yêu cầu được nuôi con chung. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu Như Y, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Như Y cho bà M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2.2] Bà M cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp ông T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bà M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông T.

[3.2.3] Bà M và ông T có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định tại Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.3] Về cấp dưỡng: Bà M không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết và ông T cũng không có ý kiến về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này các bên có phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[3.5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà M có nghĩa vụ nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Diễm M. Bà Lê Thị Diễm M được ly hôn với ông Phan Ngọc T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 89/2018 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Hậu Giang cấp cho bà Lê Thị Diễm M và ông Phan Ngọc T ngày 24/10/2018 hết hiệu lực kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2/ Về con chung:

Bà Lê Thị Diễm M được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Phan Lê Như Y, sinh ngày 18/11/2019.

Bà M cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp ông T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bà M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông T.

Bà M và ông T có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con.

3/ Về cấp dưỡng: Không xem xét.

4/ Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

5/ Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà M phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001434 ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L.

6/ Về quyền kháng cáo: Bà M và ông T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 166/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:166/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về