TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 158/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 81/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 về tranh chấp“ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 71/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Lê Thị Yển T, sinh năm 1984. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
2. Bị đơn: anh Nguyễn Duy T, sinh năm 1985. Vắng mặt.
Địa chỉ: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/5/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - chị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: chị và anh T tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Quế Xuân 1, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 12/4/2021. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống ly thân 02 năm nay; anh T không có trách nhiệm với vợ con, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.
Về con chung: có 01 cháu tên là Lê Thị Phương A, sinh ngày 31/7/2020. Chị yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: không có. Chị không trình bày và yêu cầu gì thêm.
Trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý cho đến khi xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T nhưng anh vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị T.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ; bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: anh T cư trú tại thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Chị T yêu cầu ly hôn và nuôi con nên quan hệ pháp luật giải quyết là tranh chấp về “ly hôn, nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: chị T và anh T tự nguyện kết hôn, được Uỷ ban nhân dân xã Quế Xuân 1, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 12/4/2021 nên đây là hôn nhân hợp pháp.
Về nguyên nhân mâu thuẫn, theo chị T trình bày là sau khi kết hôn thì vợ chồng sống ly thân được 02 năm. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T nhưng anh vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của chị T. Tại biên bản xác minh ngày 27/5/2022, UBND xã Quế Xuân 1 cung cấp “thời gian gần đây chị T không còn sống chung với anh T, được biết chị đã về nhà mẹ ruột sống nên địa phương không rõ nguyên nhân mâu thuẫn của chị T và anh t”. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.
[3]. Về con chung: chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con. Tại biên bản xác minh ngày 27/5/2022, UBND xã Quế Xuân 1 cung cấp “về điều kiện nuôi con: cả chị T và anh T đều có công việc và thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi con. Tuy nhiên, hiện nay con chung đang sống cùng chị T và do chị T nuôi dưỡng”. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T nhưng anh vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình về con chung và yêu cầu nuôi con của chị T.
Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 81, Điều 82, Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình, xử giao cháu A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.
Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4]. Về tài sản chung và nợ chung: không có.
[5]. Về án phí: chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Yển T về tranh chấp "ly hôn, nuôi con".
1. Về quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Lê Thị Yển T và anh Nguyễn Duy T.
2. Về con chung: giao cháu Lê Thị Phương A, sinh ngày 31/7/2020 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở. Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Lê Thị Yển T phải chịu là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 300.000 đồng mà chị đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004685 ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14 - 9 - 2022), đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 158/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 158/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về