Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 142/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 142/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 348/2022/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/7/2022, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1980; thường trú: Xóm 4, xã G, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Số 71/6 đường L, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

-Bị đơn: Ông Lương Xuân Th, sinh năm 1979; thường trú: Xã N, huyện H, tỉnh Tuyên Quang; tạm trú: Số 71/6 đường L, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Bà Trần Thị H có yêu cầu giải quyết vắng mặt, Ông Lương Xuân Th vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/5/2022, các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Bà Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H và Ông Lương Xuân Th sau thời gian tìm hiểu thì tự nguyện về sống chung với nhau, có tổ chức đám cưới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện Đ, tỉnh Nghệ An theo giấy đăng ký kết hôn số 27/2017, ngày 27/9/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do Ông Lương Xuân Th có quan hệ với người phụ nữ khác. Bà H đã tha thứ và cho ông Th nhiều cơ hội nhưng ông Th vẫn không thay đổi được.Vợ chồng tuy sống chung nhà nhưng không ngủ chung giường nên tình cảm lạnh nhạt, không chia sẽ, đồng cảm với nhau các vấn đề trong cuộc sống. Vì mâu thuẫn về tình cảm nên vợ chồng thường xuyên cải nhau khiến cuộc sống trở nên ngột ngạt, căng thẳng, gây mệt mỏi cho nhau. Nay Bà Trần Thị H xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với Ông Lương Xuân Th.

- Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Lương Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/5/2019. Bà Trần Thị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu Ông Lương Xuân Th thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về phía bị đơn Ông Lương Xuân Th:

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án và yêu cầu Ông Lương Xuân Th có ý kiến trả lời bằng văn bản đối với các yêu cầu của Bà Trần Thị H nhưng Ông Lương Xuân Th không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Ông Lương Xuân Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 04/7/2022 nhưng ông Th vắng mặt không có lý do; đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của Bà H.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà Trần Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Căn cứ vào đơn khởi kiện của Bà Trần Thị H thì đây là vụ án tranh chấp ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn là Ông Lương Xuân Th có địa chỉ tại Số 71/6 đường L, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương nên Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An thụ lý giải quyết theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H và Ông Lương Xuân Th là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện Đ, tỉnh Nghệ An theo giấy đăng ký kết hôn số 27/2017, ngày 27/9/2017 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[3] Bà Trần Thị H xác định sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, Ông Lương Xuân Th có quan hệ với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên cải vã nhau.Vợ chồng tuy sống chung nhà nhưng không ngủ chung giường nên tình cảm lạnh nhạt, không chia sẽ, đồng cảm với nhau các vấn đề trong cuộc sống. Cuộc sống hôn nhân quá ngột ngạt, căng thẳng, mệt mỏi. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên Bà Trần Thị H yêu cầu được ly hôn với Ông Lương Xuân Th. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập Ông Lương Xuân Th đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng Ông Lương Xuân Th không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của Ông Lương Xuân Th và Bà Trần Thị H đã thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt.

Việc Ông Lương Xuân Th bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với Bà Trần Thị H cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng Bà Trần Thị H và Ông Lương Xuân Th đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của Bà Trần Thị H.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Lương Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/5/2019. Bà Trần Thị H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu Ông Lương Xuân Th cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Quá trình tố tụng, Ông Lương Xuân Th vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý chí mong muốn được nuôi con. Trong thời gian trước đây và hiện nay con chung vẫn do Bà Trần Thị H nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có cơ sở để chấp nhận nguyện vọng của Bà Trần Thị H là được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Lương Trần Quỳnh A. Ghi nhận sự tự nguyện của Bà Trần Thị H không yêu cầu Ông Lương Xuân Th cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Từ những nhận định trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

[7] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H được ly hôn với Ông Lương Xuân Th (theo giấy chứng nhận kết hôn số 27/2017 ngày 27/9/2017 do Ủy ban nhân dân xã G, huyện Đ, tỉnh Nghệ An cấp).

2. Về con chung: Buộc Ông Lương Xuân Th giao con chung tên Lương Trần Quỳnh A, sinh ngày 07/5/2019 cho Bà Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của Bà Trần Thị H không yêu cầu Ông Lương Xuân Th cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, Ông Lương Xuân Th và Bà Trần Thị H đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở ông, bà thực hiện quyền này. Trường hợp Ông Lương Xuân Th lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc Bà Trần Thị H nuôi con thì Bà Trần Thị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị H chịu 300.000 đồng án phí ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003907 ngày 27/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

5. Án xử công khai, tuyên án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

6. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 142/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:142/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về