Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 119/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 119/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 110/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Mỹ T, sinh năm: 1989; (có mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện C, tỉnh T.

- Bị đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm: 1990; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Chị Phạm Thị Mỹ T trình bày:

Chị và Anh Lê Thanh T chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 53 ngày 12/7/2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 8/2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau. Chị và Anh T đã ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với Anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Thị Mỹ N, sinh ngày 31/7/2011 và Lê Tuấn K, sinh ngày 05/8/2013, hiện đang sống với Anh T. Khi ly hôn, chị yêu cầu nuôi dưỡng con chung là Cháu K và đồng ý giao con chung là Cháu N cho Anh T nuôi dưỡng, chị và Anh T không cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn Anh Lê Thanh T dù được tống đạt đầy đủ văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt và không có lời trình bày.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật, người tham gia tố tụng dân sự nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định, bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về ý kiến về việc giải quyết vụ án, đối với yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị Phạm Thị Mỹ T, cho Chị T được ly hôn với Anh Lê Thanh T; Về con chung: giao cháu Lê Thị Mỹ N cho Anh T tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu Lê Tuấn K cho Chị T chăm sóc, nuôi dưỡng, Chị T và Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn Anh Lê Thanh T dù được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt Anh T.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét thấy, Chị T yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn và nuôi con với Anh T nên đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do bị đơn Anh T có nơi cư trú tại huyện Cái Bè nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, Chị T và Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 53 ngày 12/7/2011 nên là hôn nhân hợp pháp. Chị T cho rằng chị và Anh T chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau. Chị và Anh T đã ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Chị T cương quyết xin ly hôn, còn Anh T thì không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng không có ý kiến gì về việc Chị T xin ly hôn với anh. Từ đó cho thấy Anh T đã không yêu thương, quan tâm và không có ý định hàn gắn tình cảm cũng như mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị T.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Thị Mỹ N, sinh ngày 31/7/2011 và Lê Tuấn K, sinh ngày 05/8/2013, hiện đang sống với Anh T. Khi ly hôn, chị yêu cầu nuôi dưỡng con chung là Cháu K và đồng ý giao con chung là Cháu N cho Anh T nuôi dưỡng. Xét thấy, sau khi ly thân Anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Cháu N khỏe mạnh và ổn định cho đến nay, Cháu N cũng có nguyện vọng sống với cha. Hiện Chị T đang có việc làm với thu nhập ổn định đảm bảo đủ điều kiện nuôi con, Cháu K cũng có nguyện vọng sống chung với mẹ. Vì vậy việc giao con chung là Cháu N cho Anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và giao con chung là Cháu K cho Chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định pháp luật và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các cháu.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu Anh T cấp dưỡng nuôi con, Anh T cũng không yêu cầu Chị T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này có yêu cầu thì khởi kiện bằng vụ án khác.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T trình bày không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung, Anh T không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang là có cơ sở và phù hợp với những nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Phạm Thị Mỹ T.

Về quan hệ hôn nhân: Cho Chị Phạm Thị Mỹ T được ly hôn với Anh Lê Thanh T.

Về con chung: Giao con chung tên Lê Thị Mỹ N, sinh ngày 31/7/2011 cho Anh Lê Thanh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao con chung tên Lê Tuấn K, sinh ngày 05/8/2013 cho Chị Phạm Thị Mỹ T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Lê Thanh T và Chị Phạm Thị Mỹ T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

2. Về án phí: Chị Phạm Thị Mỹ T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004859 ngày 12/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Vậy Chị T đã thi hành xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Chị Phạm Thị Mỹ T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn Anh Lê Thanh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 119/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:119/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về