TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 118/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 29 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 280/TLST–HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Hương L, sinh năm 1992; địa chỉ ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang; người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Trần Thị Kim P, sinh năm 1987; địa chỉ Khu phố X, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang (Văn bản ủy quyền ngày 27 tháng 05 năm 2022).
- Bị đơn: Anh Hà Văn P, sinh năm 1987; địa chỉ ấp B, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
(Chị L và anh P có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/5/2022 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn chị Trương Thị Hương L trình bày: Chị L và anh P sống chung từ năm 2016, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa P. Sau đó, vợ chồng anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang vào ngày 23/9/2016 và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống, thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng đến đầu năm 2019 hai vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc, thường xuyên cự cãi do bất đồng quan điểm, anh chị có hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Hiện tại vợ chồng anh chị không còn sống chung và không còn quan tâm đến nhau từ hơn 04 năm nay. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và chị L cũng không còn tình cảm gì với anh P nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Hà Văn P.
Về con chung: Chị L và anh P có 01 người con chung tên Hà Vĩnh K, sinh ngày 10/12/2015, từ nhỏ đến nay cháu K đều do chị L chăm sóc nuôi dưỡng nên khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi con và không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ: Chị L và anh P tự thỏa thuận về tài sản chung, anh chị cũng không có nợ ai. Khi ly hôn chị L không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Bị đơn anh Hà Văn P trình bày ý kiến tại biên bản lấy lời khai ngày 31 tháng 5 năm 2022: An P thống nhất với chị L về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ. Nay chị L yêu cầu ly hôn và yêu cầu được tiếp tục nuôi người con chung tên Hà Vĩnh K, sinh ngày 10/12/2015 thì anh P đồng ý tự nguyện thuận tình ly hôn và giao cháu K cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng, không đặt ra cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ: Anh P và chị L tự thỏa thuận về tài sản chung, anh chị cũng không có nợ ai nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử đúng theo quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn chị L đúng theo quy định tại các Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn anh P có thời điểm chưa chấp hành đúng pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 28, 35, 39 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 55, 81, 82, 83, của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ghi nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa chị L và anh P; tiếp tục giao người con chung tên Hà Vĩnh K, sinh ngày 10/12/2015 cho chị L trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ: Chị L và anh P không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng, chị L đã nộp tạm ứng án phí số tiền trên tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ được chuyển thu án phí toàn bộ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nhận định:
[2]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Trương Thị Hương L yêu cầu ly hôn và yêu cầu được tiếp tục nuôi con, bị đơn anh Hà Văn P cư trú tại ấp B, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu nên đây là vụ án dân sự về tranh chấp ly hôn, nuôi con và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về sự vắng mặt các đương sự: Chị Trương Thị Hương L và anh Hà Văn P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và được Tòa án chấp nhận; căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị L và anh P.
[4]. Về nội dung: Chị Trương Thị Hương L và anh Hà Văn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang vào ngày 23/9/2016 và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật. Nên hôn nhân giữa chị L và anh P là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.
[5]. Xét yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Trương Thị Hương L đối với anh Hà Văn P. Hội đồng xét xử xét thấy, chị L và anh P thống nhất xác định quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi do bất đồng quan điểm, đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không hàn gắn được, hiện tại anh chị không còn sống chung từ năm 2019 đến nay, nên hôn nhân giữa anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng. Nay anh P và chị L thống nhất tự nguyện thuận tình ly hôn.
[6]. Mục đích của hôn nhân là để tạo dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải yêu thương, quý trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhưng trong thời gian chung sống chị L và anh P phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải nhau, cuộc sống gia đình luôn căng thẳng không hàn gắn được, hiện tại chị L và anh P không còn sống chung, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa chị L và anh P.
[7]. Về con chung: Chị Trương Thị Hương L và anh Hà Văn P thống nhất giao người con chung tên Hà Vĩnh K, sinh ngày 10/12/2015 cho chị L tiếp tục trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nên ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự. Anh P có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con, chị L không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
[8]. Về tài sản chung và nợ: Chị Trương Thị Hương L và anh Hà Văn P xác định, anh chị tự thỏa thuận về tài sản chung và cũng không nợ ai, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[9]. Về án phí: Chị Trương Thị Hương L phải chịu 300.000 đồng, chị L đã nộp số tiền trên tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ được chuyển thu án phí toàn bộ số tiền trên.
[10]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên về các vấn đề có liên quan đến vụ án là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; các Điều 227, 238 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Ghi nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa chị Trương Thị Hương L và anh Hà Văn P.
2. Về con chung: Giao người con chung tên Hà Vĩnh K, sinh ngày 10/12/2015 cho chị Trương Thị Hương L tiếp tục trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hà Văn P có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con, chị L và anh P không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
3. Về tài sản chung và nợ: Chị Trương Thị Hương L và anh Hà Văn P xác định, anh chị tự thỏa thuận về tài sản chung và cũng không nợ ai, không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Trương Thị Hương L phải chịu 300.000 đồng. Chị Trần Thị Kim P (đại diện theo ủy quyền của chị L) đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0002371 ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí toàn bộ số tiền trên.
5. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Quyền kháng cáo: Chị Trương Thị Hương L và anh Hà Văn P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 118/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 118/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về